Kết hôn đồng giới là gì?

Sự cởi mở trong tư duy của xã hội Việt Nam đối với cộng đồng LGBTQ+ cũng phù hợp, tương thích với xu hướng tại nhiều quốc gia trên thế giới. Tính đến tháng 9.2022, đã có 32 quốc gia và vùng lãnh thổ hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới. Con số này sẽ được nâng lên 33 nếu Andorra thông qua luật tương tự vào tháng 2.2023. Vậy kết hôn đồng giới là gì? Mời quý đọc giả theo dõi bài viết dưới đây của ACC nha!

Hôn nhân đồng giới tác động thế nào đến xu hướng kết hôn?

Kết hôn đồng giới là gì?

I Đồng giới là gì?

Khái niệm về người đồng giới hiện nay chưa được pháp luật quy định, tuy nhiên theo tìm hiểu của tôi thuật ngữ này xuất hiện khi những người có cùng giới tính bị hấp dẫn về mặt tình yêu hay quan hệ tình dục lẫn nhau trong hoàn cảnh nào đó.

LGBT là viết tắt của các danh từ đặc trưng cho xu hướng tính dục của một người bao gồm các từ: Lesbian (đồng tính nữ), Gay (đồng tính nam), Bisexual (Lưỡng tính), Transgender (Chuyển giới).

Trong đó,

Lesibian là thuật ngữ chỉ những người mang giới tính nữ bị hấp dẫn về mặt tình yêu, tình dục với người đồng giới. Đặc điểm sinh học của họ không khác gì so với người phụ nữ khác.

Gay cũng tương tự như Lesibian, đây là khái niệm chỉ những người mang giới tính nam bị hấp dẫn về mặt tình yêu, tình dục với người đồng giới.

Như một sự kết hợp, Bisexual là thuật ngữ chỉ những người bị hấp dẫn về mặt tình yêu và tình dục với cả nam hoặc nữ. Họ không có ranh giới thích xu hướng tính dục nào nhiều hơn mà có thể thay đổi liên tục trong suốt cuộc đời tùy vào hoàn cảnh, cảm xúc.

Transgender chỉ những người đã trải qua những cuộc phẫu thuật chuyển đổi giới tính tuy nhiên danh tính không thay đổi dù ngoại hình có thay đổi, hoặc là những người quyết định sống, ăn mặc và hành động theo giới tính mà họ mong muốn rằng họ thực sự thuộc về giới tính đó.

Hiện nay pháp luật không có quy định về khái niệm hôn nhân đồng giới, thuật ngữ này xuất hiện khi có những người ủng hộ, phản đối cộng đồng LGBT về quan hệ hôn nhân. Theo quan điểm của tôi, hôn nhân đồng giới được xem là hôn nhân giữa hai người có cùng giới tính sinh học theo mối quan hệ nam - nam hoặc nữ - nữ.

II. Quy định về hôn nhân đồng giới

Bởi vì cộng đồng LGBT được chia thành nhiều đối tượng nên khi kết hôn nếu người Bisexual và người Transgender kết hôn với người khác giới tính thì vẫn được pháp luật công nhân, vì về cơ bản đó vẫn là cuộc hôn nhân dựa trên mối quan hệ nam- nữ thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật.

Tuy nhiên nếu những người thuộc nhóm Gay hoặc Lesibian khi kết hôn muốn được pháp luật công nhận thì không được. Trước đây tại khoản 5 Điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình 2000 trường hợp kết hôn giữa những người cùng giới tính bị pháp luật cấm, tuy nhiên hiện tại đã bãi bỏ quy định này tại khoản 2 Điều 8 của Luật hôn nhân và gia đình 2014 vẫn quy định Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính.

Như vậy, dù không còn quy định cấm nhưng nếu những người cùng giới tính mong muốn được đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền đều không được. Nhưng nếu như họ muốn tổ chức hôn lễ, sống chung như vợ chồng pháp luật sẽ không cấm.

Trong rất nhiều nội dung cần sửa đổi của Luật Hôn nhân và gia đình (Luật HNVGĐ) thì vấn đề hôn nhân giữa những người cùng giới tính (NCGT) đang nhận được quan tâm sâu sắc của toàn xã hội. Vấn đề nên hay không nên thừa nhận hôn nhân đồng giới (HNĐG) đang phát sinh những quan điểm trái chiều nhau. Hiện nay có hai quan điểm chủ đạo: i) không nên công nhận HNĐG vì điều này trái với quy luật tự nhiên của cuộc sống; ii) nên công nhận HNĐG vì mọi người sinh ra là bình đẳng bất kể người đó có xu hướng tính dục và bản dạng giới như thế nào.

III. Gợi ý về hôn nhân đồng giới

Kết hợp dân sự(KHDS) và đối tác chung nhà( ĐTCN)  là những hình thức thay thế hôn nhân theo nghĩa tuy không được công nhận hôn nhân, nhưng hai người đối tác có quyền chung sống với nhau, được hưởng một số quyền lợi và nghĩa vụ nào đó trong luật hôn nhân tùy theo quy định của từng quốc gia. KHDS và ĐTCN được quy định khác nhau theo pháp luật của mỗi quốc gia, giữa chúng có những nét tương đồng và cũng tồn tại nhiều điểm khác biệt.

Thứ nhất, KHDS và ĐTCN được hình thành trên cơ sở sự thỏa thuận giữa hai bên. Cũng như bao giao dịch dân sự khác, hai hình thức thay thế hôn nhân này đều là sự lựa chọn của hai người đồng giới hay khác giới để chung sống với nhau như vợ chồng và để hưởng một số quyền lợi, nghĩa vụ nhất định.
Thứ hai, việc chung sống dưới hình thức KHDS và ĐTCN phải thỏa mãn những điều kiện luật định. Các điều kiện luật định này có thể là độ tuổi (hầu hết các nước đều quy định phải trên 18 tuổi), giới tính (một số nước chỉ dành các hình thức thay thế hôn nhân này cho người đồng giới như Cộng hòa Czech, Vương quốc Anh, Thụy Điển, Đan Mạch, Na Uy…), tình trạng quan hệ (chẳng hạn không được có mối quan hệ KHDS hay ĐTCN với người khác khi đăng ký) và một số trường hợp cấm khác tùy theo pháp luật mỗi nước.
Thứ ba, các bên quan hệ phải đăng ký việc chung sống theo hình thức KHDS hay ĐTCN theo trình tự luật định và việc đăng ký này nhằm công khai hóa về mối quan hệ giữa họ để từ đó nhận được sự bảo hộ của pháp luật. Chỉ khi các bên chung sống theo hai hình thức thay thế hôn nhân này đã đăng ký cho cơ quan có thẩm quyền theo một trình tự, thủ tục luật định thì khi đó mối quan hệ của họ mới chính thức được công nhận bởi pháp luật. Đây là cơ sở vô cùng quan trọng để hình thành nên quyền và nghĩa vụ của họ đối với hình thức KHDS và ĐTCN. Tuy nhiên, trong trường hợp không đăng ký, pháp luật một số nước (như bang South Australia của Australia) vẫn công nhận hình thức hôn nhân thực tế theo một trong hai hình thức thay thế hôn nhân này khi có tranh chấp xảy ra.
Thứ tư, các bên phải cam kết có trách nhiệm hỗ trợ cho nhau cả về mặt tinh thần lẫn vật chất trong cuộc sống chung như vợ chồng. Tuy KHDS và ĐTCN chưa phải là hôn nhân nhưng pháp luật thực định của nhiều nước yêu cầu các bên khi chung sống với nhau theo một trong hai hình thức này phải có nghĩa vụ nhất định đối với nhau như vợ chồng. Bên cạnh một số quyền và nghĩa vụ luật định, khi đăng ký sống chung dưới hình thức ĐTCN hay lập hợp đồng KHDS, pháp luật các nước đòi hỏi các bên phải cam kết hỗ trợ cho nhau ở mức nhất định cả về mặt vật chất lẫn tinh thần. Mức độ cam kết của các bên sẽ được pháp luật từng nước dự liệu ở các chuẩn mực khác nhau.
Tài liệu tham khảo

Nên thừa nhận chế định kết hợp dân sự giữa hai người cùng giới tính-TS. CAO VŨ MINH- Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh

ACC hy vọng đã hỗ trợ để có thể giúp bạn hiểu thêm về vấn đề kết hôn đồng giới theo quy định của pháp luật . Nếu có gì thắc mắc quý đọc giả vui lòng liên hệ với chúng tôi qua Website: accgroup.vn

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    Họ và tên không được để trống

    Số điện thoại không được để trống

    Số điện thoại không đúng định dạng

    Vấn đề cần tư vấn không được để trống

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo