So Sánh Hợp Đồng Vô Hiệu Toàn Bộ Và Hợp Đồng Vô Hiệu Một Phần

Bài viết dưới đây chúng tôi sẽ giải đáp về vấn đề Hợp đồng vô hiệu toàn bộ và từng phần. Mời bạn đọc cùng theo dõi

So Sánh Hợp đồng Vô Hiệu Toàn Bộ Và Hợp đồng Vô Hiệu Một Phần

So sánh hợp đồng vô hiệu toàn bộ và hợp đồng vô hiệu một phần

1. Phân loại hợp đồng vô hiệu:

Hợp đồng dân sự là bản giao kèo để ghi nhận những quyền và nghĩa vụ dân sự giữa các bên Việc phân loại hợp đồng giúp cho việc tiếp cận, nghiên cứu, tìm hiểu và áp dụng pháp luật trở nên dễ dàng, chặt chẽ và chính xác hơn. Theo đó, có khá nhiều cách tiếp cận khác nhau về hợp đồng vô hiệu. Cụ thể, các cách phân loại sau đây thường được sử dụng:
 
* Căn cứ vào thủ tục tố tụng có hợp đồng vô hiệu tuyệt đối và hợp đồng vô hiệu tương đối
 
– Hợp đồng vô hiệu tuyệt đối:
 
Đây là những hợp đồng bị xem là đương nhiên vô hiệu do việc xác lập hợp đồng trái pháp luật, xâm phạm tới lợi ích của nhà nước hoặc lợi ích công cộng. Một số trường trường hợp bị coi là vô hiệu tuyệt đối:
 
+ Hợp đồng vô hiệu do giả tạo.
 
+ Hợp đồng có nội dung, mục đích vi phạm điều cấm của pháp luật.
 
+ Hợp đồng có nội dung, mục đích trái đạo đức xã hội.
 
Hợp đồng không đúng hình thức do pháp luật quy định và đã được Tòa án cho các bên thời hạn để điều chỉnh, sửa chữa đúng quy định về hình thức nhưng khi hết thời hạn đó mà các bên vẫn chưa thực hiện hoặc trường hợp pháp luật có quy định về hợp đồng vi phạm hình thức nhưng các bên chưa thực hiện hợp đồng và các bên có tranh chấp thì hợp đồng bị xem là vô hiệu.
 
Hợp đồng vô hiệu tuyệt đối thì đương nhiên hoàn toàn không có hiệu lực pháp luật.
 
– Hợp đồng vô hiệu tương đối:
 
Đây là những hợp đồng đã được các bên xác lập nhưng có thể bị Tòa án tuyên bố là vô hiệu một phần theo yêu cầu của người có quyền và lợi ích liên quan.
 
Sự vô hiệu tương đối thể hiện ở chỗ: Một (hoặc một số) nội dung của hợp đồng giao kết không đúng quy định của pháp luật hoặc xảy ra ngoài sự tính toán của các bên mà dẫn đến việc thực hiện hợp đồng không thể thực hiện được hoặc nếu thực hiện lại dẫn đến các hậu khá bất lợi... Các trường hợp dẫn đến giao dịch dân sự vô hiệu tương đối:
 
+ Giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không có năng lực hành vi tương ứng với đòi hỏi của pháp luật đối với loại giao dịch đó.
 
+ Giao dịch dân sự vô hiệu do bị đe dọa. + Giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối. + Giao dịch dân sự vô hiệu do nhầm lẫn.
 
+ Giao dịch dân sự vô hiệu do một người xác lập trong tình trạng người đó không nhận thức, điều khiển được hành vi của mình.
 
* Căn cứ vào nội dung hợp đồng thì chia thành hợp đồng vô hiệu toàn bộ và hợp đồng vô hiệu từng phần
 
– Hợp đồng vô hiệu toàn bộ:
 
Đây là hợp đồng có toàn bộ nội dung vô hiệu hoặc tuy chỉ có một phần nội dung vô hiệu nhưng phần đó lại ảnh hưởng đến hiệu lực của toàn bộ hợp đồng.
 
Khi có những căn cứ cho là toàn bộ điều khoản của hợp đồng vô hiệu thì hợp đồng vô hiệu toàn bộ. Căn cứ làm cho hợp đồng vô hiệu có thể xuất phát từ sự vi phạm nội dung hợp đồng nhưng ngoài ra, cũng có thể là những căn cứ khác như: Mục đích, năng lực giao kết hợp đồng, hợp đồng giả tạo...
 
Bên cạnh đó, có những hợp đồng vô hiệu toàn bộ nhưng đối với một số điều khoản được các bên thỏa thuận ghi trong hợp đồng có vai trò độc lập với hợp đồng thì khi hợp đồng vô hiệu toàn bộ các điều khoản đó cũng có thể được công nhận có hiệu lực nếu đủ các điều kiện luật định mà không lệ thuộc vào hiệu lực của toàn bộ hợp đồng.
 
– Hợp đồng vô hiệu từng phần (vô hiệu một phần):
 
Đây là những hợp đồng được xác lập mà có một phần nội dung của nó không có giá trị pháp lý nhưng không ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần khác của hợp đồng đó.
 
Đối với một hợp đồng vô hiệu từng phần, ngoài phần vô hiệu không được áp dụng, các phần còn lại vẫn có giá trị thi hành. Chính vì vậy, các bên vẫn phải tiếp tục thi hành trong phạm vi phần hợp đồng vẫn còn hiệu lực.
 
* Căn cứ vào điều kiện có hiệu lực của hợp đồng có thể phân hợp đồng vô hiệu thành các trường hợp sau:
 
–Hợp đồng vô hiệu do người tham gia là cá nhân không có năng lực hành vi dân sự. Năng lực pháp luật và năng lực hành vi là các điều kiện cần và đủ của năng lực chủ thể. Nói cách khác, chủ thể của các quan hệ pháp luật bắt buộc phải có đủ cả hai điều kiện là năng lực pháp luật và năng lực hành vi. Ở Việt Nam, năng lực pháp luật dân sự chính là khả năng của chủ thể được pháp luật trao cho các quyền hạn, nghĩa vụ và phải thực hiện trong phạm vi quyền hạn, nghĩa vụ. Còn năng lực hành vi dân sự tức là chủ thể bằng chính khả năng của mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự. Ví dụ, chủ thể trực tiếp tham gia các hệ cầm cố, tặng cho, thế chấp, mua bán..
 
– Hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều cấm, đạo đức xã hội: Điều cấm của pháp luật là những quy định bắt buộc không được thực hiện mà nếu thực hiện dẫn đến hậu quả pháp lý là trái quy định của pháp luật. Còn đạo đức xã hội là cách thức ứng hay quy cách xử giữa người với người nhưng được cả xã hội tôn trọng và thừa nhận. Nếu như là trái những quy cách ứng xử này sẽ bị lên án. Mặt khác, pháp luật là công cụ bảo vệ đạo đức xã hội. Vậy nên, việc vi phạm đạo đức xã hội thường cũng dẫn đến việc vi phạm pháp luật.
 
–Hợp đồng vô hiệu do không có sự tự nguyện của chủ thể: Bản chất của hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên trên cơ sở tự do, tự nguyện, bình đẳng, thỏa thuận và được ghi nhận trong các văn bản. Nên nếu như việc các bên mặc dù có hành vi giao kết hợp đồng nhưng trái tinh thần, mong muốn hay sự tự nguyện của các bên thì đương nhiên dẫn đến việc hợp đồng vô hiệu. Bởi như đã nói, sự tự nguyện của các bên là cơ sở của việc giao kết hợp đồng.
 
–Hợp đồng vô hiệu do vi phạm hình thức (nếu pháp luật có quy định về hình thức của hợp đồng là điều kiện bắt buộc). Để thống nhất và thuận tiện cho việc xem xét, giải quyết, pháp luật thường đưa ra một số điều kiện mang tính khuôn mẫu trong đó có vấn đề tuân thủ theo hình thức của hợp đồng. Như vậy, trong hầu hết các trường hợp, các bên giao kết hợp đồng phải tuân thủ theo quy định về hình thức
 
* Căn cứ vào điều kiện có hiệu lực của hợp đồng có thể phân hợp đồng vô hiệu thành các trường hợp sau:
 
–Hợp đồng vô hiệu do người tham gia là cá nhân không có năng lực hành vi dân sự. Năng lực pháp luật và năng lực hành vi là các điều kiện cần và đủ của năng lực chủ thể. Nói cách khác, chủ thể của các quan hệ pháp luật bắt buộc phải có đủ cả hai điều kiện là năng lực pháp luật và năng lực hành vi. Ở Việt Nam, năng lực pháp luật dân sự chính là khả năng của chủ thể được pháp luật trao cho các quyền hạn, nghĩa vụ và phải thực hiện trong phạm vi quyền hạn, nghĩa vụ. Còn năng lực hành vi dân sự tức là chủ thể bằng chính khả năng của mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự. Ví dụ, chủ thể trực tiếp tham gia các hệ cầm cố, tặng cho, thế chấp, mua bán...
 
–Hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều cấm, đạo đức xã hội: Điều cấm của pháp luật là những quy định bắt buộc không được thực hiện mà nếu thực hiện dẫn đến hậu quả pháp lý là trái quy định của pháp luật. Còn đạo đức xã hội là cách thức ứng hay quy cách xử giữa người với người nhưng được cả xã hội tôn trọng và thừa nhận. Nếu như là trái những quy cách ứng xử này sẽ bị lên án. Mặt khác, pháp luật là công cụ bảo vệ đạo đức xã hội. Vậy nên, việc vi phạm đạo đức xã hội thường cũng dẫn đến việc vi phạm pháp luật.
 
– Hợp đồng vô hiệu do không có sự tự nguyện của chủ thể: Bản chất của hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên trên cơ sở tự do, tự nguyện, bình đẳng, thỏa thuận và được ghi nhận trong các văn bản. Nên nếu như việc các bên mặc dù có hành vi giao kết hợp đồng nhưng trái tinh thần, mong muốn hay sự tự nguyện của các bên thì đương nhiên dẫn đến việc hợp đồng vô hiệu. Bởi như đã nói, sự tự nguyện của các bên là cơ sở của việc giao kết hợp đồng.
 
– Hợp đồng vô hiệu do vi phạm hình thức (nếu pháp luật có quy định về hình thức của hợp đồng là điều kiện bắt buộc). Để thống nhất và thuận tiện cho việc xem xét, giải quyết, pháp luật thường đưa ra một số điều kiện mang tính khuôn mẫu trong đó có vấn đề tuân thủ theo hình thức của hợp đồng. Như vậy, trong hầu hết các trường hợp, các bên giao kết hợp đồng phải tuân thủ theo quy định về hình thức của hợp đồng. Nếu như hình thức của hợp đồng không đúng quy định có thể dẫn đến việc hợp đồng vô hiệu.
 
* Căn cứ vào mức độ vượt quá phạm vi đại diện của người đại diện
 
Về bản chất, đại diện được hiểu đó là việc một người (gọi là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của người khác (gọi là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện. Cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác có thể xác lập thực hiện giao dịch dân sự thông qua người đại diện. Hình thức đại diện phổ biến thường được sử dụng như đại diện theo pháp luật; đại diện theo ủy quyền. Trong thương mại còn có hình thức đại diện cho thương nhân. Đây là một dạng riêng của quan hệ đại diện theo ủy quyền được quy định trong Bộ luật Dân sự, bởi vậy, hợp đồng đại diện cho thương nhân là một dạng đặc biệt của hợp đồng ủy quyền”.
 
Một trong các điều kiện quan trọng để công nhận hợp đồng có hiệu lực là tư cách đại diện hợp pháp (đại diện theo pháp luật hoặc ủy quyền) của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức hoặc cá nhân. Trong nhiều trường hợp, khi việc tham gia xác lập hợp đồng thay cho người thứ ba không dựa trên các trường hợp đạidiện luật định thì hợp đồng đó có thể bị là vô hiệu.
 
– Hợp đồng vô hiệu do người đại diện xác lập vượt quá phạm vi đại diện:
 
Thường thì đây là hợp đồng được xác lập bởi người đại diện hợp pháp, nhưng do người đại diện đã xác lập hợp đồng trên thực tế vượt quá phạm vi đại diện. Người trực tiếp tham gia hợp đồng tuy có tư cách đại diện hợp pháp nhưng nội dung hợp đồng do họ xác lập có một phần giá trị, mức độ, phạm vi vượt quá giới hạn được ghi trong hợp đồng ủy quyền hoặc được quy định trong loại đại diện tương ứng.
 
Hợp đồng được xác lập vượt quá phạm vi đại diện thì phần vượt quá phạm vi đại diện đó bị vô hiệu, trừ trường hợp người được đại diện biết mà không phản đối.
 
– Hợp đồng vô hiệu do người giao kết không có quyền đại diện:
 
Hợp đồng vô hiệu do người trực tiếp giao kết không có tư cách đại diện hoặc tuy có tư cách đại diện nhưng đã giao kết, thực hiện Hợp đồng không thuộc công việc mà họ được phép đại diện.
 
Cũng bị xem là không có tư cách đại diện nếu người đại diện đưa ra những tuyên bố trái với ý chí của người được đại diện hay làm những việc không thuộc đối tượng của quan hệ đại diện.

2. Hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu:

Trong đó, như đã biết, khi các chủ thể ký kết hợp đồng sẽ phát sinh các quyền, nghĩa vụ giữa cả hai bên hay còn được gọi là hợp đồng song vụ. Tuy nhiên, để hợp đồng có sự đảm bảo pháp lý thì pháp luật quy định khá nhiều điều kiện đối với chủ thể như: Chủ thể ký kết hợp đồng phải có năng lực chủ thể, nội dung và mục đích của hợp đồng không vi phạm pháp luật hay đạo đức xã hội... Vì vậy, nếu một bên tham gia ký kết hợp đồng không đáp ứng các điều kiện có thể dẫn đến hậu quả pháp luật không thừa nhận về giá trị pháp lý của hợp đồng đó hay đó còn được gọi là hợp đồng vô hiệu.

Nếu hợp đồng bị Tòa án tuyên vô hiệu thì các hậu quả pháp lý xảy ra đường nhiễm do các bên phải gánh chịu. Trong đó, thông thường, bên gây ra thiệt hại sẽ phải bồi thường thiệt hại cho bên bị thiệt hại nếu như bên gây ra thiệt hại cố tình lừa dối bên thiệt hại để ký kết hợp đồng. Mặt khác, khi hợp đồng bị tuyên vô hiệu có nghĩa là không có hợp đồng, vì vậy, các bên tham gia ký kết hợp đồng phải hoàn trả nguyên trạng những đối tượng liên quan đến hợp đồng.

Về thẩm quyền tuyên bố hợp đồng vô hiệu được thực hiện theo quy định của BLTTDS năm 2015 về việc xác định thẩm quyền của Tòa án. Như vậy, về nguyên tắc, nếu tranh chấp hợp đồng liên quan đến bất động là thuộc về Tòa án nơi có bất động sản giải quyết. Còn lại thường thuộc về Tòa án nơi bị đơn là cá nhân cư trú, làm việc hay bị đơn là tổ chức thì là nơi có trụ sở. Quyết định tuyên bố hợp đồng vô hiệu thuộc về Tòa án.

Trên đây chúng tôi đã đề cập đến quý bạn đọc vấn đề Hợp đồng vô hiệu toàn bộ và từng phần. Nếu có vướng mắc phát sinh bạn đọc vui lòng liên hệ chúng tôi tại accgroup.vn

 

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo