Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là sự thỏa thuận giữa các bên tham gia hoạt động thương mại được xác lập bằng văn bản, lời nói hay bằng nhiều hình thức có giá trị tương đương khác. Áp dụng Công ước Viên 1980 vào hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế sẽ như thế nào? Theo CISG thì hợp đồng mua bán được ký kết khi bên mua chấp nhận chào hàng và phát sinh hiệu lực phù hợp với các quy định của Công ước. Đông thời, CISG khi các bên chấp nhận chào hỏi thì hợp đồng sẽ được giao kết mà không cần phụ thuộc vào hình thức của hợp đồng. Bài viết dưới đây, chúng tôi sẽ giúp bạn tìm hiểu kỹ hơn về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo CISG.
Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo CISG
1. Giới thiệu về Công ước viên 1980 trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Hầu hết những người trong nghề có lẽ đều nghe đến hoặc biết về CISG. Đây là một công ước do Ủy ban Liên Hợp Quốc về Luật Thương mại quốc tế (UNCITRAL) soạn thảo và thông qua tại Viên năm 1980. CISG là công ước thành công nhất trong lĩnh vực thương mại quốc tế. CISG chấm dứt vai trò của hai công ước LaHay năm 1964 về mua bán quốc tế động sản hữu hình.
Sự thành công của CISG thể hiện rõ nhất ở số thành viên 88 hiện tại của nó, bao gồm hầu hết các nước có nền kinh tế lớn trên thế giới như Mỹ, Nhật, Trung Quốc, Đức, Pháp. Ngoài ra, Việt Nam đã là thành viên của công ước này và công ước đã có hiệu lực ở Việt Nam từ ngày 01/01/2017. Từ thời điểm này hầu hết các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được giao kết giữa thương nhân Việt Nam và các nước thành viên công ước sẽ được điều chỉnh bởi Công ước viên 1980.
Mục tiêu của CISG được nêu trong lời nói đầu của công ước, rằng: “Thống nhất luật áp dụng cho các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế; Giảm xung đột pháp luật, hạn chế tranh chấp phát sinh; Tạo điều kiện thúc đẩy thương mại hàng hóa giữa các quốc gia”.
2. Tính quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hóa
Tính quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo CISG có khác biệt so với pháp luật Việt Nam.
- Tại Điều 1.3 CISG đã nói rằng Công ước không xem xét đến yếu tố quốc tịch của các bên khi xác định phạm vi áp dụng Công ước.
- CISG không quy định tiêu chí phải có sự chuyển dịch hàng hóa qua biên giới mà chỉ cần các bên có địa điểm kinh doanh ở các quốc gia khác nhau.
- Điều 1.2 CISG, Công ước sẽ không áp dụng nếu việc hai bên tham gia hoạt động thương mại quốc tế khi có địa điểm kinh doanh ở các quốc gia khác nhau là không thể nhận biết được trong hợp đồng. Đồng thời, trong các giao dịch trước đó giữa các bên và trong thông tin trao đổi giữa các bên vào bất kì thời điểm nào trước hoặc vào thời điểm giao kết hợp đồng.
- Đối với Điều 10 CISG, mối quan hệ gần gũi nhất đối với việc giao kết và thực hiện hợp đồng là toàn bộ giai đoạn chào hàng, chấp nhận chào hàng đến quá trình thực hiện hợp đồng có liên hệ nhiều nhất với địa điểm kinh doanh.
- Một yếu tố nữa chính là khả năng để duy trì tính quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hóa, tức là địa điểm kinh doanh ở nước khác với nước có địa điểm kinh doanh của đối tác sẽ là một yếu tố cân nhắc nên thiên về địa điểm kinh doanh ở nước khác đó.
3. Tiêu chí xác định một hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế theo quy định của CISG
Theo Điều 1 của CISG quy định về ‘trụ sở kinh doanh của các bên tham gia hợp đồng" được xem là tiêu chí để xác định hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế. Theo đó, một hợp đồng được xem là hợp lệ, nếu các bên tham gia kí kết hợp đồng có trụ sở kinh doanh tại các nước khác nhau và các nước này là thành viên của CISG hoặc khi quy phạm tư pháp quốc tế dẫn chiếu đến việc áp dụng luật của một nước thành viên của CISG. Như vậy, yếu tố quốc tịch hay tính chất thương mại hay dân sự của các bên trong hợp đồng không ảnh hưởng đến việc xác định ‘tính quốc tế’ của hợp đồng mua bán hàng hoá theo quy định của CISG.
4. CISG được áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế trong hai trường hợp
Thứ nhất, nếu có điều khoản chọn luật áp dụng dẫn chiếu tới CISG, thì CISG sẽ được áp dụng. Nếu cơ quan tài phán tôn trọng quyền tự do hợp đồng của các bên, thì các bên trong hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế có thể tự do lựa chọn CISG là luật điều chỉnh hợp đồng mua bán của họ.
Thứ hai, nếu các bên tham gia giao kết hợp đồng không thoả thuận rõ ràng hoặc thoả thuận ngầm về việc coi luật áp dụng cho hợp đồng là CISG, thì lúc đó CISG sẽ được áp dụng theo khoản 1 Điều 1. Theo khoản 1(a) Điều 1, nếu không có quy phạm tư pháp quốc tế nào được áp dụng, thì CISG sẽ được áp dụng. Theo khoản 1(b) Điều 1, nếu các quy phạm tư pháp quốc tế dẫn chiếu đến luật của một nước kí kết, thì luật áp dụng sẽ là CISG.
5. CISG không được áp dụng trong ba trường hợp
Thứ nhất, không được áp dụng CISG để điều chỉnh một số giao dịch nhất định theo quy định của Điều 2, từ (a) đến (d) về mua bán hàng tiêu dùng, hàng bán đấu giá, hoặc nhằm thực thi pháp luật hoặc quyền lực khác theo luật, và mua bán chứng khoán.
Thứ hai, không được áp dụng CISG để điều chỉnh một số giao dịch liên quan đến một số hàng hoá nhất định theo quy định tại Điều 2 từ (e) đến (f) và Điều 3 - tàu thuỷ, máy bay, điện, bất động sản; và các hợp đồng trong đó phần lớn nghĩa vụ của bên cung ứng hàng hoá là cung ứng lao động hoặc thực hiện các dịch vụ khác.
Thứ ba, không áp dụng CISG để điều chỉnh một số vấn đề quy định tại Điều 4 và Điều 5 - tính hiệu lực của hợp đồng, sự tác động có thể phát sinh từ hợp đồng đối với quyền sở hữu hàng hoá đối tượng của hợp đồng mua bán, trách nhiệm của người bán đối với thiệt hại mà hàng hoá gây ra cho bất kì người nào.
Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo CISG tại các nước tham gia thương mại quốc tế nhằm tạo được cơ sở đảm bảo vật tư, hàng hóa mua vào - bán ra với những yêu cầu đã đặt ra từ trước đó được điều chỉnh bởi Công ước viên năm 1980. Bài viết trên đây là những thông tin mà Luật ACC đã chia sẻ với quý độc giả để cùng tham khảo và góp ý kiến cũng như nắm rõ được điều cần biết trong hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế. Nếu có ý kiến hay vướng mắc hãy phản hồi trực tiếp qua bài viết này hoặc liên hệ với chúng tôi.
Hotline: 19003330
Gmail: [email protected]
Website: accgroup.vn
Nội dung bài viết:
Bình luận