Giao dịch dân sự hoàn thành dựa trên sự tự nguyện của các bên thực hiện giao dịch và đảm bảo các điều kiện về giao dịch dân sự theo quy định pháp luật. Trường hợp giao dịch dân sự được thực hiện bằng hợp đồng giả tạo thì có được xem là có hiệu lực không? Bài viết sau đây Giao dịch dân sự giả tạo là gì? sẽ phân tích về nội dung này, giúp cho bạn đọc nắm được thông tin cần thiết.

1. Thế nào là giao dịch dân sự giả tạo?
Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.
Giao dịch dân sự sẽ chỉ có hiệu lực khi đảm bảo đủ các điều kiện sau:
- Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;
- Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;
- Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
Ngoài ra, có một số giao dịch khác có thêm điều kiện về hình thức được quy định trong các văn bản pháp luật chuyên ngành.
Khoản 1 Điều 124 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định: “Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu, còn giao dịch dân sự bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này hoặc luật khác có liên quan.“
Như vậy có thể hiểu giao dịch dân sự giả tạo là giao dịch mà trong đó việc thể hiện ý chí ra bên ngoài khác với ý chí nội tâm và kết quả thực hiện của các bên tham gia vào giao dịch.
Giao dịch giả tạo được xác lập trên cơ sở hành vi gian dối và thực hiện khi các bên xác lập giao dịch đó. Giao dịch giả tạo là giao dịch được xác lập nhằm che dấu việc thực hiện một hợp đồng khác mà các bên thật sự mong muốn thực hiện. Giao dịch giả tạo mà các bên “tự nguyện” tham gia nhưng mục đích giao dịch được thể hiện không phù hợp với mục đích các bên thực sự quan tâm, hướng tới, mong muốn đạt được. Yếu tố giả tạo thông qua dấu hiệu các bên thông đồng với nhau để tạo nên sự thiếu thống nhất giữa ý chí và tuyên bố ý chí của các bên xác lập giao dịch.
2. Các trường hợp giao dịch giả tạo
Có hai loại giao dịch dân sự giả tạo đó là giao dịch giả tạo nhằm che dấu một giao dịch khác và giao dịch giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba.
Giao dịch giả tạo nhằm che dấu một giao dịch khác
Có hai loại giao dịch dân sự song song cùng tồn tại đó là giao dịch giả tạo và giao dịch bị che giấu. Giao dịch dân sự giả tạo sẽ bị vô hiệu và giao dịch đích thực vẫn có hiệu lực pháp lí (một số trường hợp nếu vi phạm điều kiện có hiệu lực của giao dịch vẫn có thể bị vô hiệu cùng giao dịch giả tạo).
Giao dịch giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba.
Đối với trường hợp này, trên thực tế hoàn toàn không có một giao dịch nào cả, các bên xác lập giao dịch tưởng tượng, hư cấu nên các quy định, điều khoản trong giao dịch giả tạo.
3. Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo
Theo Điều 124 BLDS 2015 thì
- Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu, còn giao dịch dân sự bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này hoặc luật khác có liên quan.
- Trường hợp xác lập giao dịch dân sự giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch dân sự đó vô hiệu.
Trong xác lập giao dịch, các bên đều mong muốn tạo ra giao dịch giả tạo. Nếu chỉ có một bên mong muốn tạo ra giao dịch giả tạo, trong khi bên khác không cố ý thì có thể rơi vào trường hợp giao dịch vô hiệu do nhầm lẫn hoặc bị lừa dối.
Trốn tránh nghĩa vụ đối với người thứ ba thì người thứ ba có thể là bên thứ 3 hoặc nhà nước. Các bên có thể xác lập giao dịch giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ dân sự với bên thứ ba hoặc trốn tránh nghĩa vụ thuế, hành chính với nhà nước.
4. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu
- Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập.
- Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.
Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả..
- Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó.
- Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường.
- Việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân do Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định.
* Đối với giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo thì thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu không bị hạn chế.
5. Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu
- Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng đối tượng của giao dịch là tài sản không phải đăng ký đã được chuyển giao cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch được xác lập, thực hiện với người thứ ba vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp quy định tại Điều 167 của Bộ luật này.
- Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch dân sự khác cho người thứ ba ngay tình và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu.
Trường hợp tài sản phải đăng ký mà chưa được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì giao dịch dân sự với người thứ ba bị vô hiệu, trừ trường hợp người thứ ba ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá tại tổ chức có thẩm quyền hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó chủ thể này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa.
- Chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản từ người thứ ba ngay tình, nếu giao dịch dân sự với người này không bị vô hiệu theo quy định tại khoản 2 Điều này nhưng có quyền khởi kiện, yêu cầu chủ thể có lỗi dẫn đến việc giao dịch được xác lập với người thứ ba phải hoàn trả những chi phí hợp lý và bồi thường thiệt hại.
Nội dung bài viết:
Bình luận