Về động cơ phạm tội cướp tài sản là gì

Động cơ phạm tội là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội cố ý. Bài viết phân tích, làm sáng tỏ cách hiểu về khái niệm động cơ phạm tội theo quy định của pháp luật hình sự trước kia và hiện nay

Về động Cơ Phạm Tội Cướp Tài Sản Là Gì
Về động cơ phạm tội cướp tài sản là gì

1. Động cơ phạm tội

Động cơ phạm tội nói chung đều có ảnh hưởng đến tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Nhưng hướng ảnh hưởng cũng như mức độ ảnh hưởng đó không giống nhau trong tất cả trường hợp. Do vậy, động cơ phạm tội có thể được quy định là dấu hiệu định tội, dấu hiệu định khung hình phạt tăng nặng hoặc giảm nhẹ hoặc chỉ là tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nói chung.

Trong một số ít trường hợp, động cơ phạm tội được quy định là dấu hiệu của cấu thành tội phạm cơ bản, cho phép phân biệt tội phạm với không phải là tội phạm.

Ví dụ: Động cơ cá nhân ở tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lí kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 165 Bộ luật hình sự năm 1999); động cơ vụ lợi ở tội sử dụng trái phép tài sản (Điều 142 Bộ luật hình sự năm 1999). Trong những trường hợp này, tính chất của động cơ đã làm cho hành vi nguy hiểm cho xã hội trở nên có tính nguy hiểm đáng kể. Khác với trường hợp này, động cơ phạm tội cũng có thể được quy định là dấu hiệu định tội. Đó là trường hợp luật hình sự đã tách trường hợp phạm tội có tình tiết định khung hình phạt giảm nhẹ hoặc tăng nặng thành tội danh độc lập. Khi đó, động cơ phạm tội thực chất là dấu hiệu định khung hình phạt trở thành dấu hiệu định tội.

Ví dụ: Động cơ phòng vệ chính đáng ở tội cố ý gây thương tích do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng.

Trong nhiều trường hợp khác, động cơ phạm tội được quy định là dấu hiệu định khung hình phạt trong các cấu thành tội phạm tăng nặng hoặc giảm nhẹ như động cơ đê hèn được quy định là dấu hiệu định khung hình phạt tăng nặng của tội giết người (khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự năm 1999). Tính chất đặc biệt của động cơ phạm tội trong trường hợp này làm tăng một cách đáng kể tính nguy hiểm cho xã hội của tội giết người và dấu hiệu động cơ đê hèn cho phép phân biệt giữa giết người bình thường với trường hợp giết người có tình tiết tăng nặng này.

Bên cạnh đó, động cơ phạm tội còn có thể được quy định là tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng trách nhiệm hình sự như phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999), phạm tội vì động cơ đê hèn (Điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999)... Tình tiết này được áp dụng cho trường hợp phạm tội trong đó động cơ phạm tội không được quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt.

2. Động cơ phạm tội là gì ?

Động cơ phạm tội là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội cố ý.

Trước hết, cần phân biệt giữa động cơ phạm tội và động cơ của xử sự. Hành vi của con người trong trạng thái tâm lí bình thường đều được thực hiện do sự thúc đẩy của một hoặc một số động cơ nhất định. Không những trong trường hợp phạm tội cố ý mà ngay cà ttong các trường hợp phạm tội vô ý, hành vi của người phạm tội cũng đều do động cơ nhất định thúc đẩy. Chỉ trong một sổ trường hợp phạm tội vô ý vì cẩu thả, hành vi mới không có động cơ rõ rệt. Tuy nhiên, ở các tội phạm vô ý chỉ có thể nói đến động cơ của xử sự mà không thể nói đến động cơ phạm tội vì người phạm tội với lỗi vô ý hoàn toàn không mong muốn thực hiện tội phạm, họ hoặc không biết hành vi của mình là hành vi phạm tội hoặc tin hành vi của mình không trở thành hành vi phạm tội.

Động cơ phạm tội trong hầu hết các trường hợp đều không có ý nghĩa quyết định đến tính chất nguy hiểm của tội phạm, không thể làm thay đổi hẳn tính chất của hành vi phạm tội. Do vậy, động cơ phạm tội trong hầu hết trường hợp không phải là căn cứ để phân biệt giữa tội phạm với không phải là tội phạm, giữa tội phạm này với tội phạm khác. Trong những trường hợp như vậy, động cơ phạm tội không được mô tả trong cấu thành tội phạm cơ bản. Tuy nhiên, khi động cơ phạm tội có tính đặc trưng cho tội phạm nhất định và là dấu hiệu phân biệt tội này với các tội khác hoặc với trường hợp không phải là tội phạm thì nó phải được mô tả trong cấu thành tội phạm (cơ bản) của tội này như động cơ phòng vệ, động cơ bắt giữ người phạm tội ở tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội (Điều 126 bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017); động cơ vụ lợi ở tội sử dụng ưái phép tài sản (Điều 177 Bộ luật Hình sự 2015

Động cơ phạm tội còn có thể được phản ánh trong các cấu thành tội phạm tăng nặng hoặc giảm nhẹ là dấu hiệu định khung hình phạt tăng nặng hoặc giảm nhẹ.

Ví dụ: Động cơ đê hèn là dấu hiệu định khung hình phạt tăng nặng được phản ánh trong cấu thành tội phạm tăng nặng của tội giết người (điểm q khoản 1 Điều 123 BLHS).

Ngoài ra, động cơ phạm tội còn có thể được xem là tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khi quyết định hình phạt. Trong những tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại các điều 51 và 52 bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 có nhiều tình tiết thuộc động cơ phạm tội.

3. Tội cướp tài sản

Tội cướp tài sản được quy định tại Điều 168 Bộ luật hình sự năm 2015, các yếu tố cấu thành tội cướp tài sản:

Khách thể

Đối với tội cướp tài sản, khách thể của tội phạm bao gồm cả quan hệ về tài sản và quan hệ nhân thân, hay nói cách khác, tội cướp tài sản là tội phạm cùng một lúc xâm phạm hai khách thể, nhưng khách thể bị xâm phạm trước là quan hệ nhân thân, thông qua việc xâm phạm đến nhân thân mà người phạm tội xâm phạm đến quan hệ tài sản (dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản), nếu không xâm phạm đến quan hệ nhân thân thì người phạm tội cướp tài sản không thể xâm phạm đến quan hệ tài sản được. Đây cũng là đặc trưng cơ bản của tội cướp tài sản, nếu chỉ xâm phạm đến một trong hai quan hệ xã hội thì chưa phản ảnh đầy đủ bản chất của tội cướp tài sản, đây cũng là dấu hiệu để phân biệt tội cướp tài sản với các tội khác xâm phạm sở hữu và các tội mà người phạm tội có hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọạ dùng vũ lực ngay tức khắc nhưng không nhằm chiếm đoạt tài sản.

Do tội cướp tài sản cùng một lúc xâm phạm đến hai khách thể, nên trong cùng một vụ án có thể có thể có một người bị hại, nhưng cũng có thể có nhiều người bị hại, có người bị hại chỉ bị xâm phạm đến tài sản; có người bị hại bị xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự; có người bị hại bị xâm phạm đến cả tài sản, tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự.   

Những tài sản không phải là đối tượng của tội cướp tài sản cũng như các tội phạm sở hữu khác: Những tài sản mang tính chất tự nhiên như: rừng nguyên sinh, khoáng sản, động vật hoang dã trong rừng; Những tài sản có tính năng đặc biệt như: vũ khí, vật liệu nổ, tàu bay, tàu thủy, công trình quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia. Đối với các tài sản này, Bộ luật Hình sự đã có tội riêng để quy định và khi định tội danh thì định tội danh theo những tội riêng đó.

Mặt khách quan

Mặt khách quan của tội cướp tài sản được thể hiện ở hành vi chiếm đoạt tài sản bằng các thủ đoạn được mô tả trong điều luật: Dùng vũ lực; đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc; hoặc các hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản. Hành vi chiếm đoạt là hành vi mong muốn dịch chuyển tài sản của người khác thành tài sản của mình trái pháp luật và trái ý chí của chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản.

 

Hành vi dùng vũ lực được hiểu là dùng sức mạnh vật chất (có vũ khí hoặc công cụ, phương tiện khác) để chủ động tấn công người quản lý tài sản hoặc người khác; hành động tấn công này có khả năng gây nguy hại đến tính mạng, sức khỏe của người bị tấn công và làm cho họ mất khả năng chống cự lại hoặc công khai để cho người bị tấn công biết.

 

Đe dọa dùng ngay tức khắc thông thường được kết hợp giữa hành vi sử dụng vũ lực với những thái độ, cử chỉ, lời nói hung bạo tạo cảm giác cho người bị tấn công sợ và tin rằng người phạm tội sẽ dùng bạo lực ngay tức khắc nếu không giao tài sản. Hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được là hành vi cho người bị tấn công tuy biết sự việc đang xảy ra nhưng không có cách nào chống cự được hoặc tuy không bị nguy hại đến tính mạng , sức khỏe song không thể nhận thức được sự việc đang xảy ra.

Việc xác định thế nào là đe doạ dùng vũ lực không khó bằng việc xác định thế nào là đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc. Đây là dấu hiệu rất quan trong để phân biệt tội cướp tài sản với tội cưỡng đoạt tài sản, nếu đe doạ dùng vũ lực nhưng không ngay tức khắc thì đó là là dấu hiệu của tội cưỡng đoạt tài sản. Ngay tức khắc là ngay lập tức không chần chừ, khả năng xảy ra là tất yếu nếu người bị hại không giao tài sản cho người phạm tội. Khả năng này không phụ thuộc vào lời nói hoặc hành động của người phạm tội mà nó tiềm ẩn ngay trong hành vi của người phạm tội. Đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc, cũng có nghĩa là nếu người bị hại không giao tài sản hoặc không để cho người phạm tội lấy tài sản thì vũ lực sẽ được thực hiện.

 

Tội cướp tài sản là tội phạm có cấu thành hình thức và được coi là hoàn thành từ thời điểm người phạm tội đã thực hiện một trong các hành vi dùng bạo lực, đe dọa dùng ngay tức khắc vũ lực hoặc hành vi khác làm cho người bị tấn công lầm vào tình trạng không thể chống cự được, không kể người phạm tội có chiếm đoạt được tài sản hay không.

 

Chủ thể

Chủ thể của tội cướp tài sản là chủ thể thường. Bất kỳ người nào từ đủ 14 tuổi trở lên và có năng lực trách nhiệm hình sự đều có thể trở thành chủ thể của tội cướp tài sản.

Mặt chủ quan

Người phạm tội không chỉ cố ý thực hiện hành vi phạm tội mà còn phải có mục đích chiếm đoạt tài sản thì mới là tội cướp tài sản. Như vậy, ý thức chiếm đoạt của người phạm tội phải có trước khi thực hiện hành vi dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể tự vệ được. Nếu có hành vi tấn công nhưng vì động cơ và mục đích khác chứ không nhằm chiếm đoạt tài sản, nhưng sau đó người bị tấn công bỏ chạy, để lại tài sản và người có hành vi tấn công lấy tài sản đó thì không phải là tội cướp tài sản mà tuỳ vào trường hợp cụ thể mà truy cứu trách nhiệm hình sự người có hành vi tấn công theo các tội tương ứng, riêng hành vi chiếm đoạt của người có hành vi tấn công có thể là hành vi phạm tội công nhiên chiếm đoạt hoặc chiếm giữ trái phép tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ thể. 

Nhiều trường hợp tuy lúc đầu người phạm tội không có ý định chiếm đoạt tài sản, nhưng trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội, người phạm tội đã nảy sinh ý định chiếm đoạt và sau đó tiếp tục có hành vi dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc để chiếm đoạt bằng được tài sản thì hành vi chiếm đoạt tài sản vẫn bị coi là hành vi phạm tội cướp tài sản. 

Như vậy, mục đích giữ lại tài sản sau khi đã chiếm đoạt được bằng cách dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc, hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được là cướp tài sản.

Tội cướp được thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó là tài sản của người khác chiếm đoạt và mong muốn chiếm đoạt tài sản đó.

 

Mục đích chiếm đoạt tài sản của người khác là yếu tố bắt buộc của cấu thành tội cướp tài sản. Nếu thực hiện một trong các hành vi dùng bạo lực hoặc đe dọa dùng ngay tức khắc vũ lực hoặc hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được, nhưng không nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản thì không phạm tội cướp tài sản.

 

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo