Đối tượng điều chỉnh của luật hành chính

Luật Hành chính quy định tổ chức các cơ quan nhà nước để thực hiện hoạt động hành chính điều hành; quyền hạn, nhiệm vụ của cơ quan, cán bộ, công chức đó cũng như của cơ quan nhà nước, tổ chức, xã hội và công dân trong lĩnh vực quản lý nhà nước. Luật hành chính không chỉ bao gồm các luật về tổ chức và hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước, công sở, các quy tắc về trật tự, an ninh, an toàn xã hội mà còn bao gồm các luật và quy định khác. các quy định về quản lý kinh tế - văn hóa, xã hội, về quan hệ giữa nhà nước với các tổ chức, đơn vị kinh tế, cộng đồng và cá nhân ngày càng hoàn thiện.

Đối tượng điều chỉnh của Luật hành chính - HILAW.VN
1. Luật hành chính là gì?

 

Luật hành chính là ngành luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh từ hoạt động quản lý hành chính của nhà nước. Định nghĩa này phù hợp với quan điểm cho rằng sự phân biệt giữa các ngành luật trước hết phải căn cứ vào các mối quan hệ xã hội mà ngành luật điều chỉnh.
Hoạt động quản lý hành chính của nhà nước không thể tách rời các quan hệ xã hội mà chúng hướng tới ổn định hoặc sửa đổi, do đó đối tượng điều chỉnh của luật hành chính không phải là bản thân hoạt động quản lý hành chính nhà nước mà chính là quy phạm pháp luật hành chính của nhà nước. Các quan hệ xã hội hình thành trong quá trình hoạt động quản lý hành chính của nhà nước. Việc phần lớn các quy phạm pháp luật hành chính liên quan đến các hình thức tổ chức và hoạt động hành chính của Nhà nước không làm thay đổi thực tế chứng cứ bắt nguồn từ các quan hệ xã hội.

Quy phạm pháp luật hành chính có vai trò quan trọng trong việc nâng cao hoạt động chấp hành và quản lý hành chính của nhà nước. Các quy phạm pháp luật hành chính xác định địa vị pháp lý của cơ quan hành chính nhà nước, xác định các nguyên tắc cơ bản của quản lý hành chính nhà nước.

Định nghĩa trên phù hợp với mọi trường hợp từ sự vận động của cơ thể sống, vật thể máy móc, thiết bị tự động đến hoạt động của một tổ chức xã hội, một đơn vị kinh tế hay một hệ thống cơ quan nhà nước. Trong chương trình luật hành chính, vấn đề cần nghiên cứu là quản lý xã hội và quản lý nhà nước.
Marx coi “quản lý là một chức năng đặc biệt nảy sinh từ bản chất xã hội của quá trình lao động”. Nhấn mạnh nội dung trên, ông viết: “Bất cứ công việc xã hội hay tập thể trực tiếp nào được tiến hành trên quy mô tương đối lớn, ít nhiều đều cần có phương hướng để điều chỉnh các hoạt động cá nhân và thực hiện các chức năng chung... dàn nhạc cần có nhạc trưởng".
Luận đề trên đây của C.Mác có thể áp dụng cho mọi hoạt động chung của con người trong xã hội. Ở đâu có sự hợp tác của nhiều người thì ở đó cần có sự quản lý, vì hoạt động chung của nhiều người cần có sự hợp tác dưới nhiều hình thức. Một trong những hình thức liên kết quan trọng là tổ chức. Về nội dung, tổ chức có nghĩa là phối hợp, liên kết hoạt động của nhiều người nhằm đạt được mục tiêu đề ra, là nhân tố quyết định hiệu quả quản lý. Không có tổ chức thì không có quản lý.

Khẳng định câu hỏi này, Lênin viết: “Biết quản lý giỏi thôi chưa đủ mà còn phải biết tổ chức trong thực tiễn. Kiểm soát và điều phối các hoạt động của tập thể

Đối tượng quản lý là mệnh lệnh quản lý. Trật tự này được điều chỉnh bởi nhiều loại quy phạm: quy phạm đạo đức, quy phạm chính trị, quy phạm tôn giáo, quy phạm pháp luật, v.v.
Ngắn gọn:

- Quản lý là sự tác động có chủ đích của các vấn đề quản lý lên đối tượng quản lý.
- Quản lý xuất hiện ở mọi nơi, mọi lúc nếu tại địa điểm và thời gian đó có hoạt động chung của con người.
- Mục đích, nhiệm vụ của lãnh đạo là điều khiển, chỉ đạo hoạt động chung của mọi người, phối hợp hoạt động riêng của từng cá nhân để tạo thành hoạt động chung thống nhất của cả tập thể và hướng hoạt động chung theo một phương hướng thống nhất nhằm đạt mục tiêu mục tiêu đã định trước. mục tiêu. Quản lý được thực hiện thông qua tổ chức và quyền hạn.
Với một tổ chức, có thể xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ của các bên tham gia hoạt động chung. Có quyền hạn sẽ bảo đảm sự phục tùng của cá nhân đối với tổ chức. Quyền hạn là một phương tiện quan trọng để quản lý có kiểm soát nhằm chỉ đạo và bắt buộc các đối tượng bị quản lý thực hiện các yêu cầu, mệnh lệnh của mình.

2. Chức năng luật hành chính

2.1 Chức năng quản lý nhà nước:

Khi nhà nước xuất hiện, hầu hết (và một phần quan trọng) các công việc của xã hội đều do nhà nước điều hành.

Quản lý nhà nước tương ứng với hoạt động của nhà nước trên các lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp nhằm thực hiện các chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước.
Nói cách khác, quản lý nhà nước là sự tác động của các chủ thể nắm quyền lực nhà nước, chủ yếu thông qua pháp luật, ban hành các quy phạm pháp luật cụ thể hoặc pháp lệnh ràng buộc các chủ thể chịu sự điều chỉnh.
Như vậy, chủ thể quản lý hành chính nhà nước sử dụng quyền lực nhà nước để tổ chức và điều khiển hoạt động của đối tượng quản lý, thể hiện rõ mối quan hệ “quyền lực - phục vụ”, “quan hệ đối tác” giữa chủ thể quản lý và đối tượng. được quản lý.
Hoạt động chấp hành là một nội dung cơ bản của hoạt động chấp hành quyền lực nhà nước, nó gắn liền với hoạt động chấp hành và cùng với hoạt động chấp hành tạo thành hai mặt thống nhất của quản lý hành chính nhà nước. Hoạt động quản lý hành chính nhà nước được đặt dưới sự giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước nhưng vẫn chủ động, sáng tạo. Tính chủ động, sáng tạo của hoạt động quản lý hành chính nhà nước được biểu hiện rõ nét trong quá trình chủ thể quản lý hành chính nhà nước đề xuất các chính sách, biện pháp quản lý phù hợp với các đối tượng khác nhau. , cho phép họ chọn cách tốt nhất để hoàn thành nhiệm vụ dựa trên nghiên cứu, trong tình huống cụ thể.
Các cơ quan nhà nước đều thực hiện hoạt động quản lý hành chính nhà nước, nhưng hoạt động này chủ yếu do cơ quan hành chính nhà nước thực hiện. Hoạt động này phản ánh chức năng cơ bản của cơ quan hành chính nhà nước. Mặt khác, không nên tuyệt đối hóa việc phân loại hoạt động của cơ quan nhà nước, không nên cho rằng mỗi loại cơ quan nhà nước chỉ được thực hiện một loại hành vi nhất định, tương ứng với hình thức cơ quan nhà nước. chức năng. Thật vậy, mỗi loại cơ quan nhà nước, ngoài việc thực hiện các hành vi phản ánh bản chất chức năng cơ bản của mình, còn có thể thực hiện một số hành vi điều chỉnh, là tiêu chí chính để phân biệt nghề luật với các ngành luật khác.

Luật hành chính Việt Nam điều chỉnh các quan hệ xã hội hình thành trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước. Các mối quan hệ này có thể gọi là quan hệ thừa hành - điều hành hay quan hệ quản lý hành chính nhà nước. Nội dung của các mối quan hệ này thể hiện:

- Xây dựng và hoàn thiện cơ cấu bộ máy, hoàn thiện chế độ lao động, hoàn thiện quan hệ lao động của các cơ quan nhà nước;

- Hoạt động quản lý kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng, an ninh chính trị, trật tự xã hội trên phạm vi cả nước, ở từng địa phương, từng ngành;

- Phục vụ trực tiếp nhu cầu vật chất và tinh thần của dân cư;

- Hoạt động kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật của các cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân trực thuộc.
- Quản lý các cá nhân, tổ chức vi phạm trật tự hành chính. Quan hệ lao động theo luật hành chính được chia thành ba nhóm:

2.2. Chức năng quản lý quan hệ quản lý nhà nước

 

Chức năng quản lý quan hệ quản lý nhà nước xuất hiện trong quá trình cơ quan hành chính nhà nước thực hiện hoạt động chấp hành - điều hành trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
Tập hợp các quan hệ xã hội này là đối tượng điều chỉnh cơ bản của luật hành chính. Thông qua việc thiết lập các mối quan hệ đó, các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện các chức năng cơ bản của mình. Các quan hệ thuộc loại này rất phong phú, chủ yếu là các quan hệ:

- Giữa các cơ quan hành chính nhà nước với các đơn vị cơ sở trực thuộc (như giữa Bộ Tư pháp với Trường Đại học Luật Hà Nội);

- Giữa cơ quan hành chính nhà nước với các tổ chức kinh tế thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Các tổ chức kinh tế này đặt dưới sự quản lý thường xuyên của các cơ quan hành chính có thẩm quyền của Nhà nước (ví dụ giữa UBND huyện với các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn huyện);

- Giữa cơ quan hành chính nhà nước với các tổ chức xã hội (như giữa chính quyền với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận);

- Giữa các cơ quan hành chính nhà nước với công dân, người nước ngoài, người không quốc tịch (như giữa cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại và người khiếu nại).

2.3. Chức năng xử lý các quan hệ quản lý

Chức năng xử lý các quan hệ quản lý hình thành trong quá trình các cơ quan nhà nước xây dựng và củng cố chế độ công tác nội bộ của cơ quan nhằm ổn định về tổ chức để hoàn thành chức năng, nhiệm vụ của mình:

Mỗi loại cơ quan nhà nước có chức năng cơ bản riêng và để hoàn thành chức năng cơ bản của mình các cơ quan nhà nước phải tiến hành những hoạt động quản lý hành chính nhất định.
Những người lãnh đạo và một bộ phận công chức của các cơ quan trong bộ máy nhà nước được trao quyền tiến hành hoạt đông tổ chức trong giới hạn cơ quan. Hoạt động này còn được gọi là hoạt động tổ chức nội bộ, khác với hoạt động hướng ra bên ngoài. Để cơ quan nhà nước có thể hoàn thành chức năng, nhiệm vụ của mình, hoạt động quản lý nội bô cần được tổ chức tốt, đặc biệt là những hoạt động như kiểm tra nội bộ, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ công chức, phối hợp hoạt động giữa các bộ phân của cơ được uỷ quyền lập pháp và tiến hành hoạt động tài phán trong những trường hợp nhất định.

Như vậy, căn cứ vào đối tượng điều chỉnh là các quan hệ xã hội đã đề cập trên đây, có thể định nghĩa luật hành chính như sau:

Luật hành chính là một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình hoạt động quản lý hành chính của các cơ quan hành chính nhà nước, các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình các cơ quan nhà nước xây dựng và ổn định chế độ công tác nội bộ của mình, các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và cá nhân thực hiện hoạt động quản lý hành chính đối với các vấn đề cụ thể do pháp luật quy định. Luật hành chính điều chỉnh toàn bộ các quan hệ hành chính của nhà nước do nhà nước hoặc nhân danh nhà nước thực hiện và đối tượng chỉ đạo cơ bản của luật hành chính là các quan hệ quản lý được hình thành trong quá trình hoạt động chấp hành của các cơ quan hành chính nhà nước.
Từ định nghĩa của quy phạm pháp luật hành chính có thể kết luận rằng hoạt động hành chính của nhà nước được thực hiện thông qua các quan hệ xã hội do các quy phạm của quy phạm pháp luật hành chính điều chỉnh.
Có những tiêu chí khách quan nào để xác định xem những quan hệ xã hội này hay quan hệ xã hội khác nên được điều chỉnh bởi chính luật hành chính hay bởi các quy định của các ngành luật khác? Nhu cầu điều chỉnh bằng luật hành chính xuất hiện khi Nhà nước mong muốn, thông qua luật hành chính, tác động đến sự hình thành của mình mà không cần dùng đến quyền lực của Nhà nước, nghĩa là trong quan hệ bình đẳng với chủ thể (hợp đồng bán), hoạt động như vậy. được thực hiện không trên cơ sở điều chỉnh của pháp luật và hành chính.

3. Đối tượng điều chỉnh của luật hành chính

Đối tượng điều chỉnh của luật hành chính là các quan hệ xã hội có tính chấp hành, điều hành phát sinh giữa các chủ thể tham gia hoạt động nhà nước trong các trường hợp sau đây:

- Các quan hệ xã hội mang tính chấp hành, điều hành xuất hiện trong hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước.
Các quan hệ xã hội mang tính chấp hành, điều hành được biểu hiện trong hoạt động xây dựng, tổ chức nội bộ công việc của các cơ quan nhà nước khác (như Tòa án, Viện kiểm sát).
- Các quan hệ xã hội mang tính chấp hành, điều hành xuất hiện trong hoạt động của các cơ quan nhà nước hoặc tổ chức xã hội khác khi các cơ quan này được nhà nước trao quyền thực hiện chức năng quản lý nhà nước.

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo