Điều 94 Bộ luật tố tụng dân sự

Bộ luật tố tụng dân sự 2015 được ban hành ngày 25/11/2015 với nhiều quy định về thẩm quyền của Tòa án; cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; thành phần giải quyết việc dân sự; người tham gia tố tụng; chứng minh, chứng cứ; biện pháp khẩn cấp tạm thời; chi phí tố tụng... Mời bạn tham khảo bài viết sau để biết thêm về: Điều 94 Bộ luật tố tụng dân sự.
Phối hợp hoạt động hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự
Điều 94 Bộ luật tố tụng dân sự

1. Tóm tắt chung Bộ luật tố tụng dân sự 2015

Bộ luật tố tụng dân sự 2015 được ban hành ngày 25/11/2015 với nhiều quy định về thẩm quyền của Tòa án; cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; thành phần giải quyết việc dân sự; người tham gia tố tụng; chứng minh, chứng cứ; biện pháp khẩn cấp tạm thời; chi phí tố tụng;…Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 gồm 10 Phần, 42 Chương, 517 Điều (Thay vì Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 chỉ gồm 9 Phần, 36 Chương, 418 Điều). BLTTDS 2015 có bố cục gồm các Phần sau:

- Những quy định chung

- Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm

- Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp phúc thẩm

- Giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn

- Thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật

- Thủ tục giải quyết việc dân sự

- Thủ tục công nhận và co thi hành tại Việc Nam hoặc không công nhận bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài; công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài

- thủ tục giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài

- Thi hành Bản án, quyết định dân sự của Tòa án

- Xử lý hành vi cản trở hoạt động tố tụng, khiếu nại, tố cáo trong tố tụng

Theo đó, Bộ luật TTDS 2015 có những điểm sau đáng chú ý:

- Bổ sung mới quy định về Giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp chưa có điều luật để áp dụng:

+ Thẩm quyền của Tòa án thụ lý, giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp chưa có điều luật để áp dụng được thực hiện theo các điều từ Điều 35 đến Điều 41 của Bộ luật tố tụng dân sự  năm 2015.

+ Trình tự, thủ tục thụ lý, giải quyết vụ việc dân sự theo Bộ luật số 92/2015/QH13.

+ Nguyên tắc giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp chưa có điều luật để áp dụng thực hiện theo Điều 45 Luật này về việc áp dụng tập quán, áp dụng tương tự pháp luật, áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ, lẽ công bằng.

- Phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải

Thẩm phán tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải giữa các đương sự. Trước khi tiến hành phiên họp, Thẩm phán phải thông báo cho đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự về thời gian, địa điểm tiến hành phiên họp và nội dung của phiên họp.

- Phát hiện và kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ văn bản quy phạm pháp luật tại Điều 221 Bộ luật tố tụng dân sự 2015

Trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, nếu phát hiện văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến việc giải quyết vụ án dân sự có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên thì Tòa án thực hiện như sau:

+ Trường hợp chưa có quyết định đưa vụ án ra xét xử thì Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án báo cáo và đề nghị Chánh án Tòa án đang giải quyết vụ án có văn bản đề nghị Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật;

+ Trường hợp đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử hoặc vụ án đang được xem xét tại phiên tòa hoặc đang được xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm thì Hội đồng xét xử tạm ngừng phiên tòa theo quy định tại điểm e khoản 1 Điều 259 của Bộ luật này và báo cáo Chánh án Tòa án đang giải quyết vụ án có văn bản đề nghị Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật.

- Điều 247 Bộ Luật 92/2015/QH13 quy định rõ nội dung và phương thức tranh tụng tại phiên tòa

+ Tranh tụng tại phiên tòa bao gồm việc trình bày chứng cứ, hỏi, đối đáp, trả lời và phát biểu quan điểm, lập luận về đánh giá chứng cứ, tình tiết của vụ án dân sự, quan hệ pháp luật tranh chấp và pháp luật áp dụng để giải quyết yêu cầu của các đương sự trong vụ án.

- Bổ sung phần thứ tư về Giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn quy định:

+ Điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn

+ Quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục rút gọn

+ Phiên tòa xét xử theo thủ tục rút gọn

+ Thủ tục phúc thẩm rút gọn đối với bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị

Bộ luật tố tụng DS năm 2015 có hiệu lực từ ngày 01/07/2016 trừ một số quy định thì có hiệu lực từ ngày 01/01/2017, cụ thể tại Khoản 1 Điều 517 Bộ luật TTDS năm 2015.

2. Điều 94 Bộ luật tố tụng dân sự

Điều 94. Nguồn chứng cứ

Chứng cứ được thu thập từ các nguồn sau đây:

1. Tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được, dữ liệu điện tử.

2. Vật chứng.

3. Lời khai của đương sự.

4. Lời khai của người làm chứng.

5. Kết luận giám định.

6. Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ.

7. Kết quả định giá tài sản, thẩm định giá tài sản.

8. Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập.

9. Văn bản công chứng, chứng thực.

10. Các nguồn khác mà pháp luật có quy định.

3. Nguồn chứng cứ là gì? Nguồn chứng cứ trong tố tụng dân sự?

Như vậy, dựa vào quy định đưa ra như trên đây so với bộ luật dân sự trước đó thì Bộ luật tố tụng dân sự 2015 đã bổ sung thêm một nguồn chứng chứng cứ rất quan trọng là văn bản công chứng, chứng thực mà trước đây chưa được coi là nguồn chứng cứ chính thức mà thường phải xác định thông qua các nguồn chứng cứ khác. Đồng thời, Bộ luật tố tụng dân sự 2015 lần này đã loại bỏ nguồn chứng cứ là tập quán đó là một quy định trước đây đã gây rất nhiều tranh cãi và không phải bất kỳ nguồn chứng cứ nào cũng được xác định là chứng cứ mà các nguồn chứng cứ phải đáp ứng được các điều kiện riêng quy định tại Điều 95 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

Căn cứ dựa trên quy định tại Điều 94 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định cụ thể thì nguồn chứng cứ bao gồm các nguồn đó là tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được, dữ liệu điện tử; Vật chứng; Lời khai của đương sự; Lời khai của người làm chứng; Kết luận giám định; Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ; Kết quả định giá tài sản, thẩm định giá tài sản; Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập; Văn bản công chứng, chứng thực; Các nguồn khác mà pháp luật có quy định. Theo quy định tại Điều 95Bộ luật tố tụng dân sự và Khoản 2 Điều 3 Nghị quyết 04/2012/NQ-HĐTP (đã hết hiệu lực, chỉ có giá trị tham khảo) thì chứng cứ được xác định trên cơ sở các nguồn chứng cứ này cụ thể đó là:

Thứ nhất, dựa trên khoản 1 điều 94 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định đối với loại nguồn chứng cứ là tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được khi có chứa đựng chứng cứ của vụ án; nếu là tài liệu đọc được nội dung thì phải là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do các tổ chức, cơ quan có thẩm quyền cung cấp, xác nhận; nếu là loại tài liệu nghe được, nhìn được (như băng đĩa ghi âm, ghi hình) thì phải xuất trình được văn bản xác nhạn về xuất xứ của các tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan tới việc thu âm, ghi hình đó; có như vậy thì tài liệu đó mới được coi là có giá tri và được sử dụng làm chứng cứ chứng minh trong vụ án.

Thứ hai, dựa trên khoản 2 điều 94 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định đối với loại nguồn chứng cứ là vật chứng: vật chứng được pháp luật quy định là nguồn chứng cứ vì tồn tại trong chính bản thân nó là chứng cứ của vụ án, nó chỉ chứa đựng chứng cứ chứ nó không phải là chứng cứ.

Thứ ba, dựa trên khoản 3,4 điều 94 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định đối với lời khai của đương sự theo quy định của pháp luật, người làm chứng, kết luận giám định, biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ, kết quả định giá tài sản nếu được tiến hành đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật đề ra và cần phải đảm bảo ba thuộc tính của chứng cứ thì sẽ được coi là chứng cứ và được sử dụng để giải quyết vụ việc dân sự tại Tòa án.

Như vậy từ những phân tích ở trên chúng ta có thể thấy rằng nguồn chứng cứ được chia ra thành người, vật, tài liệu mang các thông tin về vụ việc dân sự. Việc phân biệt các nguồn chứng cứ có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định giá trị chứng minh của mỗi loại chứng cứ. Thông thường, các chứng cứ được rút ra từ các vật, tài liệu thì việc nghiên cứu, đánh giá không mấy phức tạp vì chúng ít bị chi phối bởi ngoại cảnh. Đối với những chứng cứ rút ra từ con người như đương sự, người làm chứng việc nghiên cứu, đánh giá và sử dụng chúng rất phức tạp. Nét chung nhất của con người với nghĩa là nguồn chứng cứ bị chi phối rất lớn bởi yếu tố lợi ích, tâm lí, khả năng nhận thức, nhớ và phản ánh lại những gì họ thấy, sự quan tâm của họ với sự kiện,… Tất cả những yếu tố này đều phải tính đến khi nghiên cứu, đánh giá và sử dụng các chứng cứ rút ra từ đương sự, người làm chứng.

Ngoài ra khi so sánh giữa quy định của bộ luật tố tụng dân sự 2015 và 2004 có thể nhận ra quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, thì Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đã quy định bổ sung 03 loại nguồn chứng cứ mới, đó là: Dữ liệu điện tử; Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập; Văn bản công chứng, chứng thực. Theo đó chúng ta có thể thấy theo quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đã không quy định tập quán là một loại nguồn chứng cứ nhằm phù hợp với thực tiễn giải quyết các vụ việc dân sự. Theo đó Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 cũng như các nghị quyết hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về chứng minh và chứng cứ đã có những quy định hướng dẫn về cách xác định tập quán với tư cách là nguồn chứng cứ, thì việc xác định trên thực tế vẫn gặp nhiều khó khăn. Điều này cho thấy, những vấn đề pháp lý và thực tiễn nói chung không phải lúc nào cũng kết hợp hài hòa với nhau. Nhiều trường hợp giữa pháp luật và thực tiễn còn tồn tại những khoảng cách không nhỏ và rất khó để có thể lấp đầy. Để khắc phục điều đó, hiện nay Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đã không còn coi tập quán là nguồn chứng cứ nữa.

Đối với nguồn chứng cứ là dữ liệu điện tử trong các trường hợp cụ thể các dữ liệu này dưới dạng là ký hiệu, chữ viết, chữ số, hình ảnh, âm thanh hoặc dạng tương tự được tạo ra, lưu trữ, truyền đi hoặc nhận được bởi phương tiện điện tử. Bản thân dữ liệu điện tử thì trước đó cũng đã được xem xét như là các nguồn chứng cứ, đặc biệt trong các hợp đồng mua bán ngoại thương và thực chất nó cũng là tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được mà thôi. Cũng giống như các nguồn chứng cứ khác, dữ liệu điện tử cần phải đảm bảo ba thuộc tính:

+ Thuộc tính đầu tiên đó là tính khách quan của dữ liệu điện tử phải chứa đựng những thông tin có thật, tồn tại một cách khách quan. Dữ liệu điện tử phải được thu thập từ phương tiện điện tử, mạng máy tính, mạng viễn thông, trên đường truyền và các nguồn điện tử khác theo quy định của pháp luật. Trong quá trình thu thập, bảo quản, đánh giá, sử dụng nguồn chứng cứ là dữ liệu điện tử phải đặc biệt chú ý đến tính xác thực của nó.

+ Thuộc tính thứ hai đó là tính liên quan của dữ liệu điện tử thu được phải có liên quan đến vụ án mới có khả năng làm rõ những vấn đề cần chứng minh và do đó mới được coi là chứng cứ. Tính liên quan của dữ liệu được thể hiện ở nhiều khía cạnh, quá trình hình thành, tồn tại của dữ liệu điện tử phải liên quan đến vụ việc dân sự được Tòa án giải quyết. Nhờ dữ liệu điện tử đó mà Tòa án có thể công nhận hay phủ nhận được tình tiết, sự kiện này hay tình tiết sự kiện khác của vụ việc dân sự hoặc đưa ra tin tức về nó.

+ Thuộc tính thứ ba đó là tính hợp pháp của dữ liệu và tính hợp pháp thể hiện ở chỗ chứng cứ phải được phát hiện, thu thập theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Đương sự, người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, Tòa án bằng các biện pháp do Bộ luật Tố tụng dân sự quy định khi thu thập dữ liệu phải tuân thủ quy định của pháp luật về căn cứ, thẩm quyền, trình tự, thủ tục, thời hạn thu thập dữ liệu và khi sử dụng dữ liệu phải chú ý kiểm tra tính hợp pháp của biện pháp thu thập.

Căn cứ vào quy định tại khoản 8 điều 94 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 về nguồn chứng cứ là văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập: Về bản chất, văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có năng lực lập cũng chỉ là các tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được. Điển hình cho loại nguồn chứng cứ này chính là vi bằng do Thừa phát lại lập, ghi nhận sự kiện, hành vi được sử dụng làm chứng cứ trong xét xử và trong các quan hệ pháp lý khác.

Cuối cùng đó là theo quy định tại khoản 9 diều 94 Bộ Luật tố tụng dân sự quy định về nguồn chứng cứ là văn bản công chứng, chứng thực thì theo đó phần lớn thủ tục, hồ sơ thực hiện các giao dịch dân sự đều sử dụng văn bản công chứng của tổ chức, cá nhân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Các văn bản công chứng có giá trị xác thực, giá trị pháp lý và độ tin cậy hơn các loại giấy tờ không có chứng nhận xác thực hoặc chỉ trình bày bằng miệng.

Trên đây là một số thông tin về Điều 94 Bộ luật tố tụng dân sự - Công ty Luật ACC, mời bạn đọc thêm tham khảo và nếu có thêm những thắc mắc về bài viết này hay những vấn đề pháp lý khác về dịch vụ luật sư, tư vấn nhà đất, thành lập doanh nghiệp… hãy liên hệ với ACC theo thông tin bên dưới để nhận được sự hỗ trợ nhanh chóng và hiệu quả từ đội ngũ luật sư, chuyên viên pháp lý có nhiều năm kinh nghiệm từ chúng tôi. ACC đồng hành pháp lý cùng bạn.

Nội dung bài viết:

    Đánh giá bài viết: (994 lượt)

    Để lại thông tin để được tư vấn

    Họ và tên không được để trống

    Số điện thoại không được để trống

    Số điện thoại không đúng định dạng

    Email không được để trống

    Vấn đề cần tư vấn không được để trống

    Bài viết liên quan

    Phản hồi (0)

    Hãy để lại bình luận của bạn tại đây!

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo