Việc xác định một người đang sống hay đã chết có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định quyền và nghĩa vụ của họ trong quan hệ pháp luật dân sự. Do đó, Điều 71 Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng đã có quy định về vấn đề này, cụ thể là về việc Tuyên bố chết.
Điều 71 Bộ luật Dân sự năm 2015
1. Các trường hợp tuyên bố chết
Theo quy định tại Điều 71 Bộ luật dân sự 2015, người có quyền, lợi ích liên quan có thể yêu cầu Tòa án ra quyết định tuyên bố một người là đã chết trong trường hợp sau đây:
Sau 03 năm, kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích của Tòa án có hiệu lực pháp luật mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống. Trong trường hợp này, việc tạm dừng năng lực chủ thể của cá nhân sẽ được giải quyết theo hướng chấm dứt tư cách chủ thể của người đó. Lúc này Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố người đó đã chết mà không cần đòi hỏi thêm thủ tục thông báo nào cả.
Biệt tích trong chiến tranh sau 05 năm, kể từ ngày chiến tranh kết thúc mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống.
Ngày chiến tranh kết thúc có thể có nhiều quy định khác nhau như ngày chiến thắng, ngày tuyên bố chấm dứt chiến tranh, ngày ký hiệp định đình chiến, hiệp định hòa bình hoặc ngày tuyên bố chấm dứt tình trạng chiến tránh… Tùy theo hoàn cảnh của các cuộc chiến tranh mà cơ quan Nhà nước có thẩm quyền sẽ quyết định.
Bị tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai mà sau 02 năm, kể từ ngày tai nạn hoặc thảm hoạ, thiên tai đó chấm dứt vẫn không có tin tức xác thực là còn sống, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Các tai nạn, thảm họa có thể là động đất, núi lửa, sóng thần; hành khách trong các tai nạn giao thông đường bộ, đường thủy, đường sắt, đường hàng không; người trong hầm, lò, mỏ bị sập hoặc hư hỏng.
Biệt tích 05 năm liền trở lên và không có tin tức xác thực là còn sống; thời hạn này được tính từ ngày biết được tin tức cuối cùng về người đó, nếu không xác định được ngày có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của tháng tiếp theo tháng có tin tức cuối cùng, nếu không xác định được ngày tháng có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của năm tiếp theo năm có tin tức cuối cùng.
Khi đó, căn cứ vào những trường hợp trên thì Tòa án xác định ngày chết của người bị tuyên bố là đã chết.
Quyết định của Tòa án tuyên bố một người là đã chết phải được gửi cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người bị tuyên bố là đã chết để ghi chú theo quy định của pháp luật về hộ tịch.
2. Hậu quả pháp lý của quyết định tuyên bố một người đã chết
Khoản 1 Điều 72 Bộ luật Dân sự năm 2015 có quy định: “Khi quyết định của Tòa án tuyên bố một người là đã chết có hiệu lực pháp luật thì quan hệ về hôn nhân, gia đình và các quan hệ nhân thân khác của người đó được giải quyết như đối với người đã chết”.
Khi một người bị tuyên bố là đã chết thì quan hệ về hôn nhân gia đình của người đó đối với vợ, chồng đương nhiên chấm dứt. Các quan hệ nhân thân cũng sẽ chấm dứt khi người đó bị tuyên bố là đã chết. Và người đó sẽ được khai tử theo trình tự và thủ tục của pháp luật. Nếu người bị tuyên bố chết trong trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 Điều 71 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì hướng giải quyết đối với tư cách chủ thể của người đó là từ tạm dừng thành chấm dứt hoàn toàn tư cách chủ thể. Tuy nhiên quyền nhân thân của người bị tuyên bố chết không hoàn toàn chấm dứt, người bị tuyên bố chết vẫn sẽ được bảo vệ về quyền nhân thân theo quy định của pháp luật.
Đồng thời, khoản 2 Điều 72 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: Quan hệ tài sản của người bị Tòa án tuyên bố là đã chết được giải quyết như đối với người đã chết; tài sản của người đó được giải quyết theo quy định của pháp luật về thừa kế. Tài sản của người bị tuyên bố chết sẽ được sử dụng trước tiên để thanh toán chi phí quản lý với người được giao quản lý tài sản của người đó. Sau đó sẽ được đưa ra thành di sản để chia thừa kế.
3. Hủy bỏ quyết định tuyên bố chết
Theo quy định tại Điều 73 Bộ luật Dân sự năm 2015, khi một người bị tuyên bố là đã chết trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó còn sống thì theo yêu cầu của người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người đó là đã chết.
Quan hệ nhân thân của người bị tuyên bố là đã chết được khôi phục khi Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người đó là đã chết, trừ các trường hợp: Vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố là đã chết đã được Tòa án cho ly hôn theo quy thì quyết định cho ly hôn vẫn có hiệu lực pháp luật; Nếu vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố là đã chết đã kết hôn với người khác thì việc kết hôn đó vẫn có hiệu lực pháp luật.
Người bị tuyên bố là đã chết mà còn sống có quyền yêu cầu những người đã nhận tài sản thừa kế trả lại tài sản, giá trị tài sản hiện còn.
Trường hợp người thừa kế của người bị tuyên bố là đã chết biết người này còn sống mà cố tình giấu giếm nhằm hưởng thừa kế thì người đó phải hoàn trả toàn bộ tài sản đã nhận, kể cả hoa lợi, lợi tức; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường.
Quan hệ tài sản giữa vợ và chồng được giải quyết theo quy định của Bộ luật này, Luật hôn nhân và gia đình.
Quyết định của Tòa án hủy bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết phải được gửi cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người bị tuyên bố là đã chết để ghi chú theo quy định của pháp luật về hộ tịch.
Có thể thấy, một cá nhân nếu được tuyên bố là đã chết thì quyền và nghĩa vụ của họ sẽ đương nhiên rất khác với cá nhân đang còn sống. Chính vì thế, việc có một quy định rõ ràng về vấn đề này trong Bộ luật Dân sự đã cho thấy sự dự liệu chính xác trong tư tưởng của các nhà làm luật.
Trên đây là toàn bộ nội dung giới thiệu của ACC về quy định tại Điều 71 Bộ luật Dân sự năm 2015 gửi đến quý bạn đọc để tham khảo. Trong quá trình tìm hiểu nếu như quý bạn đọc còn thắc mắc cần giải đáp, quý bạn đọc vui lòng truy cập trang web: https://accgroup.vn để được trao đổi, hướng dẫn cụ thể.
Nội dung bài viết:
Bình luận