Điều 69 Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân 2015 quy định những vấn đề gì? Hãy cùng Luật ACC tìm hiểu chi tiết thông qua bài viết sau nhé!
1. Bầu cử là gì?
Bầu là cách lựa chọn người nắm giữ một chức vụ theo chế độ tập thể. Bầu cử là việc lựa chọn người nắm giữ chức vụ trong bộ máy nhà nước được thực hiện bởi người dân thông qua con đường bỏ phiếu tập thể
Bầu cử là một hoạt động xã hội của con người mà theo đó một nhóm người bầu ra một hay nhiều người để đại diện cho các nhóm người xác định đó để thực hiện chức năng xã hội cụ thể.
Ngoài ra, khái niệm bầu cử còn được dùng rất nhiều thay cho “quyền bầu cử”.
2. Điều 69 Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân 2015
Nguyên tắc bỏ phiếu
1. Mỗi cử tri có quyền bỏ một phiếu bầu đại biểu Quốc hội và bỏ một phiếu bầu đại biểu Hội đồng nhân dân tương ứng với mỗi cấp Hội đồng nhân dân.
2. Cử tri phải tự mình, đi bầu cử, không được nhờ người khác bầu cử thay, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều này; khi bầu cử phải xuất trình thẻ cử tri.
3. Cử tri không thể tự viết được phiếu bầu thì nhờ người khác viết hộ, nhưng phải tự mình bỏ phiếu; người viết hộ phải bảo đảm bí mật phiếu bầu của cử tri. Trường hợp cử tri vì khuyết tật không tự bỏ phiếu được thì nhờ người khác bỏ phiếu vào hòm phiếu.
4. Trong trường hợp cử tri ốm đau, già yếu, khuyết tật không thể đến phòng bỏ phiếu được thì Tổ bầu cử mang hòm phiếu phụ và phiếu bầu đến chỗ ở, chỗ điều trị của cử tri để cử tri nhận phiếu bầu và thực hiện việc bầu cử. Đối với cử tri là người đang bị tạm giam, người đang chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc mà trại tạm giam, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc không tổ chức khu vực bỏ phiếu riêng hoặc cử tri là người đang bị tạm giữ tại nhà tạm giữ thì Tổ bầu cử mang hòm phiếu phụ và phiếu bầu đến trại tạm giam, nhà tạm giữ, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc để cử tri nhận phiếu bầu và thực hiện việc bầu cử.
5. Khi cử tri viết phiếu bầu, không ai được xem, kể cả thành viên Tổ bầu cử.
6. Nếu viết hỏng, cử tri có quyền đổi phiếu bầu khác.
7. Khi cử tri bỏ phiếu xong, Tổ bầu cử có trách nhiệm đóng dấu “Đã bỏ phiếu” vào thẻ cử tri.
8. Mọi người phải tuân theo nội quy phòng bỏ phiếu.
3. Thông báo về thời gian bầu cử, nơi bỏ phiếu
Trong thời hạn 10 ngày trước ngày bầu cử, Tổ bầu cử phải thường xuyên thông báo cho cử tri biết ngày bầu cử, nơi bỏ phiếu, thời gian bỏ phiếu bằng hình thức niêm yết, phát thanh và các phương tiện thông tin đại chúng khác của địa phương.
4. Quy định về thời gian bỏ phiếu
1. Việc bỏ phiếu bắt đầu từ bảy giờ sáng đến bảy giờ tối cùng ngày. Tùy tình hình địa phương, Tổ bầu cử có thể quyết định cho bắt đầu việc bỏ phiếu sớm hơn nhưng không được trước năm giờ sáng hoặc kết thúc muộn hơn nhưng không được quá chín giờ tối cùng ngày.
2. Trước khi bỏ phiếu, Tổ bầu cử phải kiểm tra hòm phiếu trước sự chứng kiến của cử tri.
3. Việc bỏ phiếu phải được tiến hành liên tục. Trong trường hợp có sự kiện bất ngờ làm gián đoạn việc bỏ phiếu thì Tổ bầu cử phải lập tức niêm phong hòm phiếu, tài liệu liên quan trực tiếp đến cuộc bầu cử, kịp thời báo cáo cho Ban bầu cử, đồng thời phải có những biện pháp cần thiết để việc bỏ phiếu được tiếp tục.
5. Bỏ phiếu sớm, hoãn ngày bỏ phiếu
Trường hợp đặc biệt cần hoãn ngày bỏ phiếu hoặc bỏ phiếu sớm hơn ngày quy định thì Ủy ban bầu cử trình Hội đồng bầu cử quốc gia xem xét, quyết định.
6. Ý nghĩa của bầu cử
Thứ nhất, bằng quyền bầu cử của mình, chính nhân dân đã lựa chọn, thành lập ra cơ quan đại diện cho mình và ủy thác, chuyển giao quyền lực của mình cho họ. Với vai trò là người làm chủ đất nước, mỗi người dân đều có quyền và trách nhiệm trong việc xây dựng đất nước.
Việc thực hiện quyền và trách nhiệm đó được thể hiện thông qua việc bầu cử, mỗi người dẫn chọn ra người đại diện cho mình trong từng lĩnh vực, từng công việc. Từ đó hình thành nên hệ thống cơ quan nhà nước. Sau khi chọn được người đại diện của mình, người dân ủy thác cho người đại diện mình quyền làm chủ đất nước. Người đại diện nhận quyền lực của nhân dân và thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực trong bộ máy nhà nước.
Thứ hai, qua quá trình bầu cử, công dân đã xác lập nên mối quan hệ giữa người dân và người được ủy quyền. Người dân có quyền yêu cầu những cư tri bảo vệ quyền lợi của mình. Những người nhận được ủy quyền từ người dân có có trách nhiệm tiếp xúc, tìm hiểu, lắng nghe những nhu cầu, bức xúc của người dân mà họ đại diện và tìm cách để giải quyết những nhu cầu, những bức xúc đó.
Thứ ba, bầu cử giúp nhân dân tìm kiếm và lựa chọn một đường lối lãnh đạo sáng suốt, phù hợp với mong muốn của mình. Có thể nói rằng bầu cử chính là một hình thức trưng cầu dân ý đặc biệt về đường lối, chủ trương, khả năng lãnh đạo của từng cá nhân.
Thứ tư, thông qua bầu cử, nhân dân thực hiện quyền giám sát tối cao của mình đối với sự vận hành của quyền lực trong bộ máy nhà nước. Quyền lực nhà nước xuất phát từ nhân dân, nhân dân chuyển giao quyền lực cho nhà nước thông qua hoạt động bầu cử .
Nội dung bài viết:
Bình luận