Điều 62 bộ luật tố tụng hình sự 2015

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 ra đời đã quy định nhiều điểm mới đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại trong vụ án hình sự. Luật ACC xin gửi đến quý bạn đọc bài viết “Quy định về “Bị hại” trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015”.
Hop-tac-quoc-te-trong-to-tung-hinh-su-300x164

1. Bị hại là gì?

Theo Khoản 1 Điều 62 Bộ luật tố tụng hình sự 2015: Bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra.

2. Quyền và nghĩa vụ của bị hại

Quyền và nghĩa vụ của bị hại được quy định cụ thể tại Điều 62 Bộ luật tố tụng hình sự 2015:
- Bị hại hoặc người đại diện của họ có quyền:
+ Được thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này;
+ Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
+ Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;
+ Đề nghị giám định, định giá tài sản theo quy định của pháp luật;
+ Được thông báo kết quả điều tra, giải quyết vụ án;
+ Đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật;
+ Đề nghị hình phạt, mức bồi thường thiệt hại, biện pháp bảo đảm bồi thường;
+ Tham gia phiên tòa; trình bày ý kiến, đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi bị cáo và người khác tham gia phiên tòa; tranh luận tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; xem biên bản phiên tòa;
+ Tự bảo vệ, nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình;
+ Tham gia các hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật này;
+ Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình, người thân thích của mình khi bị đe dọa;
+ Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án;
+ Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
+ Các quyền khác theo quy định của pháp luật.
+ Trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của bị hại thì bị hại hoặc người đại diện của họ trình bày lời buộc tội tại phiên tòa.
- Bị hại có nghĩa vụ:
+ Có mặt theo giấy triệu tập của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; trường hợp cố ý vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan thì có thể bị dẫn giải;
+ Chấp hành quyết định, yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Trường hợp bị hại chết, mất tích, bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì người đại diện thực hiện quyền và nghĩa vụ của người bị hại như đã nêu trên.
Cơ quan, tổ chức là bị hại có sự chia, tách, sáp nhập, hợp nhất thì người đại diện theo pháp luật hoặc tổ chức, cá nhân kế thừa quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức đó có những quyền và nghĩa vụ như đã nêu trên.

3. Những điểm mới về quy định bị hại

Một trong những thay đổi về nhận thức trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đó là, bị hại không chỉ là cá nhân mà còn là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín. Theo đó, bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra. Cũng có ý kiến cho rằng, bị hại phải là thể nhân chứ không thể là cơ quan hay tổ chức, vì cơ quan, tổ chức thì không thể bị thiệt hại về thể chất. Tuy nhiên, bị hại phải được hiểu là con người pháp lý chứ không chỉ là con người tự nhiên nên bị hại có thể là cá nhân hay cơ quan, tổ chức. Để khắc phục những vướng mắc trong thực tiễn thi hành, đồng thời, phát huy vai trò chủ động, tích cực của họ trong việc giải quyết vụ án, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã có quy định bổ sung quyền của bị hại. Đó là quyền trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; quyền đề nghị giám định, định giá tài sản; đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi bị cáo và người khác tham gia phiên tòa, tranh luận tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; tự bảo vệ, nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình; yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, nhân phẩm, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình, người thân thích của mình khi bị đe dọa.
Về nghĩa vụ của bị hại, để khắc phục những khó khăn trong trường hợp họ bất hợp tác và cố tình không có mặt khi cơ quan có thẩm quyền tố tụng yêu cầu đồng thời đề cao trách nhiệm của họ, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định nếu bị hại cố ý vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không phải do trở ngại khách quan thì có thể bị dẫn giải.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 cũng được bổ sung trường hợp bị hại chết, mất tích, bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự thì người đại diện thực hiện quyền và nghĩa vụ của người bị hại. Cơ quan, tổ chức là bị hại có sự chia, tách, sáp nhập, hợp nhất thì người đại diện theo pháp luật hoặc tổ chức, cá nhân kế thừa quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức đó có những quyền và nghĩa vụ của bị hại theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

4. Quyền được đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu của bị hại

Quyền được đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu của bị hại được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 62 BLTTHS 2015.
Đây là một trong những điểm mới của BLTTHS năm 2015. Theo điểm b khoản 2 Điều 62 BLTTHS năm 2015 thì bị hại hoặc người đại diện của họ có quyền: “Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu”. Như vậy, không chỉ các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng có quyền đưa ra các chứng cứ, đồ vật, tài liệu mà bị hại có quyền đưa ra chứng cứ, tài liệu và đồ vật liên quan đến vụ án để chứng minh có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội, chứng minh những thiệt hại của mình là do hành vi phạm tội gây ra, thậm chí bị hại có thể chứng minh cả những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết quyền lợi của mình như việc giải quyết bồi thường thiệt hại và những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án.

5. Quyền trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu của bị hại

Quyền trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá của bị hại được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 62 BLTTHS 2015.
Nếu như trước đây, bị hại trong vụ án hình sự chỉ được đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu thì theo BLTTHS 2015, bị hại còn có quyền trình bày ý kiến của mình về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án đồng thời có quyền yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá các tài liệu, đồ vật đó. Đây là một quy định nâng cao sự chủ động của bị hại khi tham gia tố tụng hình sự. Trên thực tế, bị hại là người trực tiếp bị tội phạm xâm hại, trong nhiều trường hợp bị hại cũng đồng thời là nhân chứng trực tiếp của vụ án, do đó những ý kiến của bị hại về các chứng cứ, tài liệu, đồ vật có ý nghĩa quan trọng giúp các cơ quan tiến hành tố tụng xác định tính khách quan của các chứng cứ, tài liệu đồ vật có liên quan đến vụ án từ đó xác định các tình tiết trong vụ án hình sự.

6. Quyền được thông báo kết quả điều tra, giải quyết vụ án của bị hại

Quyền được thông báo kết quả điều tra, giải quyết vụ án của bị hại được quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 62 BLTTHS 2015.
Trong giai đoạn điều tra, khi cơ quan điều tra ra quyết định tạm đình chỉ điều tra (Điều 229 BLTTHS 2015), quyết định phục hồi điều tra (Điều 235 BLTTHS 2015) và khi kết thúc điều tra, cơ quan điều tra phải thông báo cho bị hại, đương sự và người đại diện hợp pháp của họ (Điều 232 BLTTHS 2015).
Trong giai đoạn truy tố, khi Viện kiểm sát ra các quyết định như Quyết định truy tố bị can trước Tòa án (Điều 243 BLTTHS 2015), Quyết định trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung (Điều 245 BLTTHS 2015), Quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án, Quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án đối với bị can, Quyết định phục hồi vụ án (Điều 247, 248, 249 BLTTHS 2015) thì Viện kiểm sát có trách nhiệm thông báo cho bị hại.
Trong giai đoạn xét xử, Toà án giao Quyết định đưa vụ án ra xét xử cho bị hại chậm nhất là 10 ngày trước khi mở phiên toà (khoản 1 Điều 286 BLTTHS 2015). Các Quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ vụ án, quyết định phục hồi vụ án của Tòa án được giao bị hại hoặc người đại diện của họ trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày ra quyết định (khoản 2 Điều 286 BLTTHS 2015). Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày tuyên án Tòa án cấp sơ thẩm phải giao bản án cho bị hại (khoản 1 Điều 262 BLTTHS 2015).

7. Quyền được tham gia các hoạt động tố tụng hình sự của bị hại

Theo điểm k khoản 2 Điều 62 BLTTHS 2015, bị hại có quyền tham gia các hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật TTHS 2015.
Vị trí và vai trò của bị hại khi họ tham gia tố tụng theo BLTTHS 2003 tương đối mờ nhạt và chủ yếu được thực hiện trong giai đoạn xét xử của toà án. Tuy nhiên đến BLTTHS 2015 Với quyền được tham gia các hoạt động tố tụng hình sự theo quy định của BLTHHS 2015 thì vai trò của bị hại đã được chú trọng và nâng cao. Như vậy, bị hại có có thể được tham gia vào một số hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án. Với quyền được tham gia một số hoạt động tố tụng quy định tại BLTTHS 2015, bị hại hoàn toàn chủ động trong việc bảo vệ quyền lợi của mình như họ có được thông tin từ các cơ quan tiến hành tố tụng mà không phải chờ đến khi được thông báo. Các cơ quan tiến hành tố tụng phải nỗ lực hết sức trong phạm vi khả năng của mình để bị hại được tham gia các hoạt động tố tụng theo luật định đồng thời phải tuân thủ những điều kiện nhất định như việc tham gia đó không ảnh hưởng đến tính khách quan của vụ án cũng như gây khó khăn hoặc cản trở đến hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng khác.

8. Dịch vụ tư vấn Luật ACC

Trên đây là thông tin Quy định về “Bị hại” trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 mà Công ty Luật ACC gửi đến quý bạn đọc tham khảo. Nếu cần cung cấp thêm thông tin chi tiết quy định về tố tụng, quý khách vui lòng truy cập trang web: https://accgroup.vn để được trao đổi cụ thể.

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo