Điều 6 Luật điều ước quốc tế 2016 mới nhất

Điều ước quốc tế là thỏa thuận bằng văn bản được ký kết nhân danh Nhà nước hoặc Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với bên ký kết nước ngoài, làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo pháp luật quốc tế. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, mời bạn đọc cùng theo dõi bài viết: Điều 6 Luật điều ước quốc tế 2016 mới nhất

292462507024 Lhl

Điều 6 Luật điều ước quốc tế 2016 mới nhất

1. Điều ước quốc tế là gì?

Theo khoản 1 Điều 2 Luật Điều ước quốc tế 2016, điều ước quốc tế là thỏa thuận bằng văn bản được ký kết nhân danh Nhà nước hoặc Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với bên ký kết nước ngoài, làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo pháp luật quốc tế.

Ngoài ra, điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên là điều ước quốc tế đang có hiệu lực đối với nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

(Khoản 2 Điều 2 Luật Điều ước quốc tế 2016)

2. Điều 6 Luật điều ước quốc tế 2016 mới nhất

Điều 6. Điều ước quốc tế và quy định của pháp luật trong nước

1. Trường hợp văn bản quy phạm pháp luật và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó, trừ Hiến pháp.

2. Căn cứ vào yêu cầu, nội dung, tính chất của điều ước quốc tế, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ khi quyết định chấp nhận sự ràng buộc của điều ước quốc tế đồng thời quyết định áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần điều ước quốc tế đó đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong trường hợp quy định của điều ước quốc tế đã đủ rõ, đủ chi tiết để thực hiện; quyết định hoặc kiến nghị sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện điều ước quốc tế đó.

Khoản 2, khoản 5, Điều 156, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định: “Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn”; “Việc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật trong nước không được cản trở việc thực hiện điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật trong nước và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó, trừ Hiến pháp”

Từ quy định trên, Điều ước quốc tế có tính ưu tiên áp dụng hơn văn bản quy phạm pháp luật trong nước (trừ Hiến pháp) nhưng không đồng nghĩa với việc được xếp ở thứ bậc cao hơn. Theo đó, thứ tự áp dụng sẽ lần lượt là: Hiến pháp, Điếu ước quốc tế, văn bản quy phạm pháp luật trong nước.
=> Như vậy, theo quy định này thì khi Điều ước quốc tế và Hiến pháp có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì sẽ áp dụng Hiến pháp để điều chỉnh vấn đề đó.

3. Mối quan hệ giữa điều ước quốc tế và pháp luật Việt Nam

Các quy định mới trong Hiến pháp năm 2013 và nhu cầu thực hiện chủ trương hội nhập quốc tế đã đặt ra yêu cầu phải sửa đổi Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tếnăm 2005. Luật Điều ước quốc tế đã được thông quan và có hiệu lực kể từ ngày 1/7/2016 thay thế Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005. Theo đó, vấn đề hiệu lực pháp lý và vị trí của điều ước quốc tế trong quan hệ với hệ thống pháp luật Việt Nam về cơ bản vẫn giữ nguyên về ý nghĩa, chỉ có sự thay đổi về câu chữ và sắp xếp điều khoản.

Điều 6 của Luật điều ước quốc tế năm 2016 là quy định chính yếu xác định mối quan hệ giữa điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và pháp luật Việt Nam.

Như vậy, về hiệu lực pháp lý, Điều 6 trên không có quy định công nhận trực tiếp và rõ ràng hiệu lực pháp lý của điều ước quốc tế trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Có thể có hai quan điểm giải thích Điều 6 này.

Thứ nhất, có thể lập luận rằng với việc ưu tiên áp dụng (ở Khoản 1) và cho phép áp dụng trực tiếp (khoản 2) cho thấy điều ước quốc tế phải có hiệu lực pháp lý và hiệu lực này phải cao hơn VBQPPL Việt Nam. Nếu có sự khác biệt trong quy định của điều ước quốc tế và VBQPPL Việt Nam thì quy định của điều ước quốc tế sẽ được ưu tiên áp dụng. Các luật chuyên ngành khác của Việt Nam cũng có quy định tương tự. Hơn nữa, các VBQPPL mới ban hành không được làm cản trở việc thực hiện điều ước quốc tế. Luật ban hành VBQPPL năm 2008 cũng đặt ra nhiều quy định để bảo đảm tính tương thích giữa VBQPPL Việt Nam và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Ví dụ như quy định cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo VBQPPL phải nghiên cứu ĐƯQT có liên quan đến dự án, dự thảo, lấy ý kiến của Bộ Ngoại giao về tính tương thích với điều ước quốc tế có liên quan, hay quy định về trách nhiệm thẩm định tính tương thích với điều ước quốc tế có liên quan của Bộ Tư pháp đối với dự thảo VBQPPL. Như vậy, có thể thấy, về nguyên tắc, hệ thống VBQPPL Việt Nam cần phải được xây dựng và vận hành tương thích (hoặc ít nhất không trái) với các quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Quy định như thế cũng phù hợp với nguyên tắc pacta sunt servandatrong luật quốc tế, theo đó các quốc gia có nghĩa vụ thực hiện điều ước quốc tế mà mình là thành viên một cách tự nguyện và thiện chí.

Tuy nhiên, Điều 6 này có một ngoại lệ được quy định tại Khoản 1, Điều 3 đó là: quy định "việc ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế phải không trái với các quy định của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam". Như vậy, về hiệu lực pháp lý và vị trí, điều ước quốc tế có hiệu lực thấp hơn Hiến pháp nhưng cao hơn các VBQPPL khác. Điều 156 của Luật ban hành VBQPPL năm 2015 (có hiệu lực từ ngày 1/7/2016) đã hợp nhất quy định ở Điều 6 và Điều 3 nêu trên.

Quan điểm thứ hai có thể cho rằng quy định ưu tiên áp dụng và cho phép áp dụng trực tiếp không đồng nghĩa với hiệu lực pháp lý của điều ước quốc tế cao hơn quy định của pháp luật Việt Nam. Về mặt câu chữ, Điều 6 không có bất kỳ nội dung nào ghi nhận hiệu lực pháp lý cao hơn. Do đó chỉ có thể kết luật rằng điều ước quốc tế được “ưu tiên áp dụng”, không thể suy diễn xa hơn đến mức cho rằng điều ước quốc tế có hiệu lực pháp lý cao hơn pháp luật trong nước như quan điểm nêu trên. Hơn nữa, việc ưu tiên áp dụng này chỉ giới hạn trong một số trường hợp hẹp – khi có sự khác nhau giữa quy định của điều ước quốc tế và pháp luật Việt Nam.

Quan điểm thứ hai bám sát với với câu chữ quy định của Điều 6, mang tính thực tiễn và mang tính cẩn trọng hơn so với quan điểm nêu trên. Tuy nhiên quan điểm thứ nhất cũng có điểm hợp lý và logic – đây có thể còn cần nhiều thảo luận và trao đổi để có thể đi đến thống nhất.

Về việc áp dụng điều ước quốc tế, Điều 6 quy định điều ước quốc tế có thể được áp dụng theo hai cách thức, gián tiếp và trực tiếp. Theo đó, cách thức áp dụng phổ biến nhất là nội luật hoá quy định của điều ước quốc tế vào hệ thống pháp luật Việt Nam, thông qua việc bãi bỏ, sửa đổi, bổ sung hay ban hành mới VBQPPL thực hiện điều ước quốc tế. Việc áp dụng trực tiếp điều ước quốc tế chỉ giới hạn trong hai trường hợp. Trường hợp đầu tiên là khi có sự khác nhau của quy định ĐƯQT và VBQPPL về cùng một vấn đề thì sẽ áp dụng điều ước quốc tế (Khoản 1, Điều 6). Nói cách khác trong trường hợp không có sự khác nhau thì điều ước quốc tếkhông được áp dụng trực tiếp. Trường hợp thứ hai, được quy định ở Khoản 2, là khi có quyết định cho phép áp dụng trực tiếp điều ước quốc tế của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Để điều ước quốc tế có thể được áp dụng trực tiếp trong trường hợp này, ba điều kiện sau phải được thoả mãn:

(1) thời điểm ra quyết định áp dụng trực tiếp là khi thể hiện sự đồng ý chịu ràng buộc,

(2) quy định của ĐƯQT phải đủ rõ và chi tiết để thực hiện,

(3) có quyết định cho áp dụng trực tiếp của Quốc hội, Chủ tịch nước hay Chính phủ.

Điểm khác biệt lớn nhất của hai trường hợp kể trên là yêu cầu phải có quyết định cho phép áp dụng trực tiếp ở Khoản 2, trong khi ở Khoản 1 không cần thiết phải có quyết định như thế, điều ước quốc tếđược tự động áp dụng trực tiếp khi có xung đột với pháp luật quốc gia. Nói cách khác, trường hợp thứ hai còn cần một thủ tục là quyết định cho phép áp dụng trực tiếp. Quy định này tương tự như trong nội luật của Pháp, Nhật Bản, Chilê, Thái Lan và Nam Phi. Pháp quy định điều ước quốc tế chỉ có thể áp dụng trực tiếp như luật quốc gia nếu được công bố bằng một Sắc lệnh Tổng thống (vừa là nguyên thủ quốc gia vừa là người đứng đầu nhánh hành pháp). Thái Lan và Nam Phi quy định một thủ tục phụ tương tự như thế nhưng do cơ quan lập pháp tiến hành.

Trên đây là các nội dung giải đáp của chúng tôi về Điều 6 Luật điều ước quốc tế 2016 mới nhất. Trong quá trình tìm hiểu, nếu như các bạn cần Công ty Luật ACC hướng dẫn các vấn đề pháp lý vui lòng liên hệ với chúng tôi để được giải đáp.

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo