Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa (XHCN).Hệ thống xã hội chủ nghĩa là thể chế chính trị mà được các nước có các đảng Cộng sản nắm quyền lãnh đạo tuyên bố sẽ đưa đất nước và dân tộc mình đi theo một con đường xã hội chủ nghĩa.
Định hướng những vấn đề cơ bản nhất về chế độ chính trị, tiếp tục khẳng định và làm rõ hơn vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, về kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường, về bảo vệ Tổ quốc, về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và hiệu lực thi hành của Hiến pháp bảo đảm tính ổn định và lâu dài.Bài viết sau đây, Luật ACC xin làm rõ hơn về quy đinh tại Điều 5 Hiến pháp 1992. Mời quý bạn đọc cùng theo dõi bài viết sau đây:
Điều 5 Hiến pháp Việt Nam 1992
1.Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam
Theo quy định tại Điều 5 Hiến pháp 1992: Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam.
Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, bao gồm các dân tộc Kinh, Mường, Mán, Thổ, Tày, Nùng, Thái, Dao, Gia Rai, Ê Đê, Ba Na, Chăm, Khơme… Lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đã cho thấy, bất kỳ ở đâu và trong thời điểm nào thì đồng bào các dân tộc thiểu số anh em cũng kề vai, sát cánh cùng với đồng bào Kinh để cùng chống thiên tai, địch họa, dịch bệnh... Bất cứ một dải đất biên cương nào của Tổ quốc cũng có sự góp sức, không kể máu xương của đồng bào các dân tộc anh em. Vì thế, trong suy nghĩ và tình cảm của mình, trong trái tim Chủ tịch Hồ Chí Minh, 54 dân tộc anh em sinh sống trên mọi miền đất nước đều là anh em một nhà/đều là thành viên không thể chia cắt của đại gia đình các dân tộc Việt Nam.
2. Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc
Việt Nam là một quốc gia thống nhất, đa dân tộc gồm 54 dân tộc cùng chung sống, trong đó, dân tộc Kinh chiếm đa số với 85,7% dân số, còn lại là đồng bào các dân tộc thiểu số với trên 12,253 triệu người, chiếm tỷ lệ 14,3%. Từ sau khi giành được chính quyền, Đảng ta rất coi trọng thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau giữa các dân tộc. Thể hiện chính sách đó, Hiến pháp nước ta qua các thời kỳ đều luôn khẳng định chính sách đoàn kết dân tộc. Hiến pháp năm 1992 tiếp tục khẳng định rõ các quyền của đồng bào các dân tộc thiểu số trên mọi phương diện. Điều 5, Hiến pháp năm 1992 nêu rõ: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển về mọi mặt, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số. Cùng với các quy định về quyền, nghĩa vụ của công dân nói chung, Hiến pháp cũng đã có một số quy định khác tại các Điều 30, 34, 36, 39, 54, 94... quy định cụ thể về các quyền tự do ứng cử ĐBQH, đại biểu HĐND các cấp, quyền tự do tôn giáo của đồng bào dân tộc cũng như trách nhiệm của Nhà nước về phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế cho đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi.
Như vậy, Hiến pháp vừa khẳng định quyền của đồng bào các dân tộc vừa quy định trách nhiệm của Nhà nước trong việc thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Đây cũng là những yếu tố tạo điều kiện cho các dân tộc thực hiện, phát huy quyền bình đẳng của mình qua quy định của pháp luật và sự hỗ trợ về các chính sách cụ thể của Nhà nước.
Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, quyền bình đẳng của đồng bào các dân tộc trên mọi phương diện tiếp tục được khẳng định, phát triển và thực hiện trong thực tế.
Về chính trị, đồng bào các dân tộc bình đẳng về quyền làm chủ đất nước; bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, được thực hiện quyền tham chính của mình thông qua thực hiện dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp qua bầu cử và ứng cử (Điều 54 Hiến pháp, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội). Số lượng ĐBQH là người dân tộc thiểu số luôn chiếm tỷ lệ cao so với tỷ lệ dân số trong các nhiệm kỳ của QH. Nhiệm kỳ QH Khóa X có 66 đại biểu dân tộc thiểu số đại diện cho 27 thành phần dân tộc thiểu số, chiếm 16,7% tổng số ĐBQH. Nhiệm kỳ QH Khóa XI có 86 đại biểu dân tộc thiểu số, đại diện cho 31 thành phần dân tộc thiểu số, chiếm 17,27% tổng số ĐBQH. Nhiệm kỳ QH Khóa XII có 86 đại biểu dân tộc thiểu số, đại diện cho 30 thành phần dân tộc thiểu số, chiếm 17,27% tổng số ĐBQH. Nhiệm kỳ QH Khóa XIII có 78 đại biểu, đại diện cho 29 thành phần dân tộc thiểu số, chiếm 15,6% tổng số ĐBQH. Không chỉ ở QH, tỷ lệ người dân tộc thiểu số tham gia đại biểu HĐND các cấp đều tăng qua các nhiệm kỳ bầu cử. Nhiệm kỳ 2004 – 2009, tỷ lệ đại biểu dân tộc thiểu số trong HĐND cấp tỉnh là 18,2%, cấp huyện 18,9%, cấp xã 23,3%. Đại biểu đại diện cho đồng bào các dân tộc thiểu số tham gia hoạt động trong hệ thống chính trị ngày càng đông, nhiều người đã và đang giữ các chức vụ quan trọng trong Đảng, QH, Chính phủ như: Tổng bí thư, Chủ tịch QH, Phó chủ tịch QH, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc, Trưởng ban Dân vận Trung ương... Pháp luật hiện hành cũng quy định rõ: công dân Việt Nam có quyền tự xác định mình thuộc dân tộc nào, có quyền tự do đi lại, cư trú, quyền có quốc tịch, quyền tự do tín ngưỡng, quyền bình đẳng trước pháp luật và được sử dụng tiếng dân tộc của mình khi tham gia các hoạt động tố tụng, tại phiên tòa...
Về kinh tế, đồng bào các dân tộc thiểu số được Nhà nước hỗ trợ để phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, thu hẹp khoảng cách về mức sống giữa các vùng; hằng năm, nhà nước dành tỷ lệ thích đáng về ngân sách đầu tư cho vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ địa cách mạng, vùng dân tộc thiểu số, vùng khó khăn. Nhà nước khuyến khích đầu tư vào vùng dân tộc thiểu số và địa bàn khó khăn, hỗ trợ tạo điều kiện để phát triển kết cấu hạ tầng ở các địa bàn có điều kiện KT-XH đặc biệt khó khăn. Tỷ lệ hộ nghèo vùng dân tộc thiểu số giảm nhanh, bình quân đạt từ 4 - 5%/năm, năm 1993 tỷ lệ hộ nghèo là 86,4% đến nay chỉ còn 25,6%. Cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống đã có thay đổi rõ rệt: 97,42% số xã có đường đến trung tâm; 80,7% thôn thuộc xã đặc biệt khó khăn có đường giao thông đến trục chính; 100% xã có trường tiểu học, trung học cơ sở, lớp mẫu giáo, trong đó, 84,6% trường, lớp học được xây dựng kiên cố; 100% xã có trạm y tế; 84,6% số xã khó khăn có điện lưới đến trung tâm, với gần 70% số hộ được sử dụng điện; 98,7% số xã có điểm bưu điện văn hóa và 100% số xã có điện thoại; phủ sóng phát thanh trên 90% và sóng truyền hình đạt gần 80%.
Về giáo dục, y tế, văn hóa - xã hội, mọi công dân không phân biệt dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, nam nữ, nguồn gốc gia đình, địa vị xã hội, hoàn cảnh kinh tế đều bình đẳng về cơ hội học tập. Nhà nước tạo điều kiện để người dân tộc thiểu số được học tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và được hưởng các chính sách ưu tiên đặc biệt nhằm tăng cơ hội tiếp cận về giáo dục cho con em vùng dân tộc thiểu số. 100% xã đạt chuẩn phổ cập tiểu học, nhiều xã đạt chuẩn phổ cập trung học; 349 trường phổ thông dân tộc nội trú được xây dựng, thu hút gần 70 nghìn học sinh dân tộc nội trú các cấp theo học. Người dân tộc thiểu số được hưởng các quyền ưu tiên về chăm sóc sức khỏe, y tế, an sinh xã hội... Các dân tộc được phát triển hài hòa trong một nền văn hóa đa dân tộc, bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc đều được trân trọng, giữ gìn, phát huy và phát triển. Đồng bào dân tộc ai cũng có quyền tham gia vào các hoạt động văn hóa của dân tộc mình, của cộng đồng, xã hội và được hưởng các chính sách về phát triển văn hóa. Mọi người đều có quyền làm việc, tự do lựa chọn việc làm và nghề nghiệp, được hưởng các chính sách ưu đãi để tự tạo việc làm, tìm kiếm việc làm, lập thân, lập nghiệp.
Phải khẳng định rằng, sau hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện do Đảng lãnh đạo, đất nước ta đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên mọi mặt. Trong đó, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân từng bước có những chuyển biến vững chắc, hòa nhập với xu thế phát triển chung của cộng đồng thế giới; tính đúng đắn và những thành quả qua thực hiện Hiến pháp 1992 đã được khẳng định. Quyền của đồng bào dân tộc thiểu số từng bước được luật hóa trên nhiều phương diện, tạo điều kiện cho đồng bào có cơ hội thuận lợi phát triển về mọi mặt. Khẳng định tính nhất quán chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ta qua các thời kỳ là bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau để cùng phát triển. Cùng với sự hoàn thiện từng bước hệ thống pháp luật của đất nước, quyền bình đẳng của đồng bào các dân tộc thiểu số đã được luật hóa, công dân là người các dân tộc không phân biệt đa số hay thiểu số, trình độ phát triển cao hay thấp đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ trong mọi lĩnh vực đời sống: chính trị, KT-XH, văn hóa, quốc phòng, an ninh... Kinh tế ở vùng dân tộc thiểu số, miền núi có sự tăng trưởng đáng kể; các thiết chế văn hóa ở cơ sở được quan tâm xây dựng. Bộ mặt nông thôn vùng dân tộc thiểu số có nhiều thay đổi tích cực; đời sống mọi mặt được nâng lên, tỷ lệ hộ đói nghèo giảm đáng kể. Cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống đồng bào từng bước được cải thiện, đáp ứng việc đi lại, học hành, chữa bệnh... của đồng bào. Bản sắc văn hóa các dân tộc được gìn giữ, phát huy và phát triển. Hệ thống chính trị thường xuyên được củng cố, tăng cường và ngày càng phát triển, nhất là hệ thống chính trị ở cơ sở. Trật tự xã hội ổn định, an ninh - quốc phòng được giữ vững. Đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số phát triển cả về số lượng, chất lượng; bộ máy tổ chức và đội ngũ cán bộ của cơ quan làm công tác dân tộc được quan tâm kiện toàn. Đồng bào các dân tộc đoàn kết, gắn bó với nhau hơn, tin tưởng vào đường lối đổi mới, thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Về văn hóa các dân tộc thiểu số: việc bảo tồn, duy trì bản sắc văn hóa của một số dân tộc đang có nguy cơ dần bị mai một, kể cả tiếng nói, chữ viết, trang phục, văn học, nghệ thuật, ẩm thực, phong tục, tập quán... Việc bảo tồn tên gọi, địa danh núi rừng, sông suối vùng dân tộc không được chú ý; tên các anh hùng, người có công với đất nước, danh nhân người dân tộc thiểu số chưa được đưa vào quỹ tên đường hoặc có thì cũng không được đặt ở vị trí trung tâm, ở ngay các địa phương có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống lâu đời.
3. Thực hiện chính sách phát triển về mọi mặt, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số.
Về giúp đỡ tạo điều kiện cho các dân tộc thiểu số vươn lên, hội nhập với sự phát triển chung của cả nước: quá trình nghiên cứu, hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật bảo vệ các quyền lợi chính đáng của đồng bào dân tộc thiểu số mới chủ yếu tập trung vào xóa đói giảm nghèo, giải quyết những vấn đề bức xúc trước mắt, chưa mang tính chất lâu dài; một số chính sách dân tộc chậm được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tế. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, chính sách vùng dân tộc thiểu số chậm đổi mới về nội dung, phương thức nên nhiều nơi đồng bào chưa được tiếp cận thông tin hoặc tiếp cận không đầy đủ. Chưa khắc phục được tư tưởng tự ty, ỷ lại trông chờ vào sự giúp đỡ của Nhà nước trong một bộ phận không nhỏ đồng bào kể cả cán bộ vùng dân tộc thiểu số.
Về hệ thống chính trị cơ sở: hệ thống chính trị cơ sở nhiều nơi chưa đủ mạnh, chất lượng cán bộ người dân tộc chưa thực sự đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong công cuộc đổi mới, cơ quan làm công tác dân tộc không ổn định. Tình hình an ninh, chính trị một số nơi vùng dân tộc thiểu số, miền núi còn tiềm ẩn nhiều nhân tố mất ổn định; các thế lực thù địch gia tăng phá hoại khối đại đoàn kết các dân tộc.
4. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hoá tốt đẹp
Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của các dân tộc là chủ trương nhất quán của Nhà nước Việt Nam. Chính vì thế, Điều 5 – Hiến pháp 1992, quy định như sau:
“Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình.”
– Quyền của dân tộc thiểu số là mộ trong những quyền cơ bản của con người, thuộc nhóm quyền dân sự – chính trị đã được Luật pháp Quốc tế công nhận.
– Đời sống văn hóa, tinh thần của đồng bào các dân tộc trong những năm qua được cản thiện rõ rệt, mức thụ hưởng văn hóa được nâng cao. Nhiều nét văn hóa các dân tộc thiểu số được bảo tồn, phát triển, được công nhân là di sản văn hóa thế giới.
– Công tác giáo dục và đào tạo, nâng cao dân trí ở vùng có đông người dân tộc thiểu số sinh sống cũng được quan tâm đẩy mạnh và đạt được nhiều thành tự quan trọng. Hệ thống các trường trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, trường dạy nghề, các loại hình trường nội trú, bán trú, dự bị đại học dân tộc tại vùng có đông dân tộc thiểu số đều được đầu tư xây dựng.
– Việc gìn giữ các giá trị văn hóa truyền thống, hệ thống tiếng nói, chữ viết của các dân tộc thiểu số cũng là vấn đề được ưu tiên trong chính sách giáo dục của Nhà nước Việt Nam.
– Đến năm 2020, hơn 90% hộ gia đình vùng đồng bào dân tộc thiểu số được nghe Đài tiếng nói Việt Nam và trên 80% số hộ được xem truyền hình. Các chương trình phát thanh, truyền hình bằng cả tiếng Việt và 26 thứ tiếng Dân tộc được phát sóng mở rộng tới các bản làng xa xôi.
Trên đây là nội dung về Điều 5 Hiến pháp 1992. Chúng tôi hy vọng rằng bạn có thể vận dụng các kiến thức trên để sử dụng trong công việc và cuộc sống. Để biết thêm thông tin chi tiết và nhận thêm sự tư vấn, giúp đỡ khi có nhu cầu về các vấn đề liên quan đến giấy xác nhận tình trạng hôn nhân; thủ tục tạm ngừng kinh doanh hay cách soạn thảo mẫu hồ sơ tạm ngừng kinh doanh…; mời quý khách hàng liên hệ đến hotline của Công ty Luật ACC để được hỗ trợ kịp thời. Công ty Luật ACC - Đồng hành pháp lý cùng bạn.
Nội dung bài viết:
Bình luận