Điều 33 Bộ luật tố tụng hình sự 2015

Bộ luật Tố tụng hình sự số 101/2015/QH13 được Quốc hội Nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 27 tháng 11 năm 2015 gồm 9 Phần, 36 Chương, 510 Điều, có hiệu lực thi hành từ kể ngày 01 tháng 7 năm 2016. Mời bạn tham khảo bài viết sau để biết thêm về: Điều 33 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.
Phối hợp hoạt động hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự
Điều 33 Bộ luật tố tụng hình sự 2015

1. Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 có hiệu lực khi nào?

Bộ luật Tố tụng hình sự số 101/2015/QH13 được Quốc hội Nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 27 tháng 11 năm 2015 gồm 9 Phần, 36 Chương, 510 Điều, có hiệu lực thi hành từ kể ngày 01 tháng 7 năm 2016.
Bộ luật Tố tụng hình sự với 510 điều chia làm 9 phần, 36 chương; có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016. Theo đó BLTTHS số 19/2003/QH11 hết hiệu lực kể từ ngày BLTTHS năm 2015 có hiệu lực; Bộ luật TTHS 2015 cũng đã bãi bỏ quy định về việc cấp giấy chứng nhận người bào chữa tại khoản 3 và khoản 4 Điều 27 của Luật luật sư số 65/2006/QH11 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 20/2012/QH13.
BLTTHS năm 2015 có nhiều quy định mới (số điều luật tăng thêm 154 điều, bổ sung 176 điều mới, sửa đổi 317 điều, giữ nguyên 17 điều, bãi bỏ 26 điều) với một số vấn đề chính sau đây:- Phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính tư pháp; tăng quyền, trách nhiệm cho Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán.- Mở rộng diện người tham gia tố tụng; bổ sung diện người tham gia tố tụng, một số cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra; quy định rõ quyền hạn, nhiệm vụ của cấp trưởng, cấp phó các cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra.- Bổ sung quyền của những người tham gia tố tụng theo hướng mở rộng hơn diện người tham gia tố tụng- Điều chỉnh khái niệm chứng cứ, nguồn, thu thập chứng cứ; xử lý chặt chẽ hơn về vật chứng.

Ngoài ra, BLTTHS năm 2015 cũng quy định về rút ngắn thời hạn tạm giam, việc gia hạn tạm giam cùng nhiều bổ sung về hoạt động điều tra, truy tố, xét xử trong vụ án hình sự...

Theo Nghị quyết số 110/2015/QH13 ngày 27/11/2015 của Quốc hội khóa XIII (NQ 110/2015), kể từ ngày 01/7/2016 thì BLTTHS năm 2015 có hiệu lực:

1. Đối với những vụ án do Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án đang thụ lý, giải quyết theo thẩm quyền quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự số 19/2003/QH11 (sau đây gọi là BLTTHS năm 2003) nhưng đến ngày 01/7/2016 chưa kết thúc thì thẩm quyền giải quyết tiếp tục được áp dụng theo quy định của BLTTHS năm 2003 cho đến khi kết thúc vụ án, còn các vấn đề khác được thực hiện theo quy định của BLTTHS năm 2015.

2. Đối với những tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố đang trong quá trình kiểm tra, xác minh nhưng đến ngày 01/7/2016 chưa kết thúc thì thời hạn giải quyết được tính theo thời hạn của BLTTHS năm 2015.

3. Đối với những bị can, bị cáo đang bị tạm giam theo quy định của BLTTHS năm 2003 nhưng đến ngày 01/7/2016 không được tạm giam theo quy định của BLTTHS năm 2015 hoặc thời hạn tạm giam vượt quá thời hạn theo quy định của BLTTHS năm 2015 thì Viện Kiểm sát, Tòa án quyết định hủy bỏ biện pháp tạm giam đang áp dụng hoặc thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác theo quy định của BLTTHS năm 2015.

4. Đối với những vụ án hình sự do cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra đang tiến hành điều tra nhưng đến ngày 01/7/2016 chưa kết thúc điều tra thì thời hạn điều tra được thực hiện theo quy định của BLTTHS năm 2015.

5. Đối với những vụ án hình sự đang trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử theo thủ tục rút gọn nhưng đến ngày 01/7/2016 chưa kết thúc điều tra, chưa quyết định việc truy tố hoặc chưa đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm thì thời hạn điều tra, truy tố, xét xử được tính theo thời hạn của BLTTHS năm 2015.

Đối với những bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị trước ngày 01/7/2016 và thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 456 của BLTTHS năm 2015 nhưng kể từ ngày 01/7/2016 mới xét xử thì áp dụng thủ tục rút gọn theo quy định của BLTTHS năm 2015 để giải quyết.

6. Đối với những vụ án hình sự đã xét xử sơ thẩm theo quy định tại BLTTHS năm 2003 mà có kháng cáo, kháng nghị trước ngày 01/7/2016 nhưng kể từ ngày 01/7/2016 mới xét xử phúc thẩm thì áp dụng BLTTHS năm 2015 để giải quyết.

Đối với bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo quy định tại BLTTHS năm 2003 mà có kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm trước ngày 01/7/2016 nhưng chưa giải quyết hoặc kể từ ngày 01/7/2016 mới có kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm thì áp dụng BLTTHS năm 2015 để giải quyết.

7. Đối với những trường hợp đã được cấp giấy chứng nhận người bào chữa theo quy định của BLTTHS năm 2003 thì người bào chữa tiếp tục sử dụng cho đến khi kết thúc việc bào chữa.

8. Tòa án tiếp tục áp dụng các quy định pháp luật hiện hành về án phí, lệ phí Tòa án và các chi phí tố tụng khác cho đến khi có quy định mới của cơ quan có thẩm quyền.

2. Điều 33 Bộ luật tố tụng hình sự 2015

Điều 33. Kiểm tra, giám sát trong tố tụng hình sự

1. Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thường xuyên kiểm tra việc tiến hành các hoạt động tố tụng thuộc thẩm quyền; thực hiện kiểm soát giữa các cơ quan trong việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.

2. Cơ quan nhà nước, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận, đại biểu dân cử có quyền giám sát hoạt động của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

Nếu phát hiện hành vi trái pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thì cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử có quyền yêu cầu, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng xem xét, giải quyết theo quy định của Bộ luật này. Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải xem xét, giải quyết và trả lời kiến nghị, yêu cầu đó theo quy định của pháp luật.

3. Kiểm tra, giám sát trong tố tụng hình sự

Việc kiểm tra, giám sát trong tố tụng và các hoạt động tố tụng được thực hiện trong nội bộ cơ quan tiến hành tố tụng:

Theo Điều luật này việc kiểm tra các hoạt động tố tụng được thực hiện trong nội bộ cơ quan tiến hành tố tụng. Thể hiện ở việc người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp của các hoạt động tố tụng trong thẩm quyền của mình để kịp thời phát hiện, khắc phục những sai sót, vi phạm pháp luật.

Ví dụ: thủ trưởng cơ quan điều tra phải kiểm tra về tính hợp pháp, tính có căn cứ của quyêt định khởi tố bị can, quyết định tạm giam, tạm giữ... thuộc thẩm quyền của mình.

Việc kiểm tra, giám sát trong tố tụng hình sự yêu cầu các cơ quan tiến hành tố tụng phải kiểm soát hoạt động tố tụng:

Nội dung thứ hai của nguyên tắc này là yêu cầu các cơ quan tiến hành tố tụng phải kiểm soát hoạt động tố tụng.

Kiểm soát được hiểu theo nghĩa các cơ quan tiến hành tố tụng kiểm soát hoạt động của nhau.

Thể hiện ở việc các cơ quan tiến hành tố tụng trong phạm vi thẩm quyền của mình kịp thời phát hiện những sai lầm, vi phạm pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng khác và yêu cầu khắc phục.

Ví dụ: Viện kiểm sát kiểm soát hoạt động tiếp nhận, giải quyết tin báo tội phạm của cơ quan điều tra, Tòa án nhân dân kiểm soát hoạt động, điều tra, truy tố của cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, nếu điều tra chưa đầy đủ hoặc vi phạm pháp luật thì trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung...

Cơ chế giám sát trong tố tụng hình sự từ các cơ quan bên ngoài các cơ quan tiến hành tố tụng:

Ngoài ra, nội dung kiểm tra, kiểm sát trong nội bộ cơ quan tiến hành tố tụng, trong hệ thống tố tụng.

Điều luật này còn quy định cơ chế giám sát từ bên ngoài các cơ quan tiến hành tố tụng. Đó là hoạt động giám sát của Cơ quan nhà nước, ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận, đại biểu dân cử.

Các cơ quan, tổ chức và cá nhân này có quyền giám sát hoạt động của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

Kiểm tra, giám sát trong tố tụng hình sự phát hiện những hành vi trái pháp luật thì chủ thể giám sát có quyền:

Trong quá trình giám sát, nếu phát hiện những hành vi trái pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thì chủ thể giám sát có quyền yêu cầu (cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử), có quyền kiến nghị (Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận) với cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền xem xét, giải quyết theo các quy định tại chương XXXIII của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015).

Cơ quan quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm xem xét, giải quyết và trả lời kiến nghị, yêu cầu của các chủ thể có quyền giám sát theo quy định của pháp luật.

Trên đây là một số thông tin về Điều 29 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 - Công ty Luật ACC, mời bạn đọc thêm tham khảo và nếu có thêm những thắc mắc về bài viết này hay những vấn đề pháp lý khác về dịch vụ luật sư, tư vấn nhà đất, thành lập doanh nghiệp… hãy liên hệ với ACC theo thông tin bên dưới để nhận được sự hỗ trợ nhanh chóng và hiệu quả từ đội ngũ luật sư, chuyên viên pháp lý có nhiều năm kinh nghiệm từ chúng tôi. ACC đồng hành pháp lý cùng bạn.

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo