Hãy theo dõi bài viết dưới đây của ACC để cùng tìm hiểu về giao dịch liên quan đến nhà là nơi ở duy nhất của vợ chồng được quy định cụ thể tại Điều 31 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
1. Nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản?
Nghĩa vụ đối với tài sản chung:
- Giấy đăng ký quyền sở hữu tài sản chung phải đăng ký tên cả hai vợ chồng
- Giao dịch liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký quyền sở hữu, tài sản là nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình phải có sự thỏa thuận của vợ, chồng
- Vợ chồng phải cùng chịu trách nhiệm với giao dịch mà vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập
- Vợ chồng có thỏa thuận về việc một bên đưa tài sản chung vào kinh doanh thì người này có quyền tự mình thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản chung đó
Nghĩa vụ đối với tài sản riêng
- Vợ, chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng của mình;
- Quyết định nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào tài sản chung.
- Trong trường hợp vợ, chồng có tài sản riêng mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đó là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản này phải có sự đồng ý của chồng, vợ.
- Vợ, chồng thực hiện nghĩa vụ riêng đối với nghĩa vụ tài sản có trước khi kết hôn, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch không vì nhu cầu của gia đình.
- Chịu trách nhiệm riêng về nghĩa vụ phát sinh do hành vi vi phạm pháp luật của vợ chồng.
Điều 31 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014
2. Điều 31 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014
Điều 31 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về Giao dịch liên quan đến nhà ở là nơi ở duy nhất của vợ chồng, theo đó:
“Việc xác lập, thực hiện, chấm dứt các giao dịch liên quan đến nhà là nơi duy nhất của vợ chồng phải có sự thỏa thuận của vợ chồng. Trong trường hợp nhà ở thuộc sở hữu riêng của vợ chồng thì chủ sở hữu có quyền xác lập, thực hiện chấm dứt giao dịch liên quan đến tài sản đó nhưng phải đảm bảo chỗ ở cho vợ chồng.”
Đối với vợ, chồng hay bất kì cá nhân nào khác thì nhu cầu về nhà ở là một nhu cầu hết sức quan trọng và là nhu cầu thiết yếu. Nhà ở là nơi cả gia đình cùng nhau sinh sống, nuôi dạy con cái, dành thời gian để cùng nhau nghỉ ngơi, xây dựng cuộc sống. Bên cạnh đó, nhà ở là một loại tài sản có giá trị vô cùng lớn, có thể nói là lớn nhất đối với mỗi gia đình. Thực tế, có những cặp vợ chồng dành dụm, tích góp và lao động nhiều năm liền mới có thể xây dựng một ngôi nhà của riêng họ. Do là loại tài sản quan trọng như vậy nên bất kì thay đổi nào về nhà ở cũng ảnh hưởng đến cuộc sống, đến quyền và nghĩa vụ của các bên. Chính vì vậy, để đảm bảo sự ổn định đời sống cho các gia đình, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã đặt ra quy định đối với những giao dịch liên quan đến nhà là nơi ở duy nhất của vợ chồng.
Điều luật quy định 2 nguyên tắc chung trong việc giao dịch liên quan đến nhà ở là nơi ở duy nhất của vợ chồng như sau:
- Nếu nhà ở là tài sản chung và là nơi ở chung duy nhất thì việc xác lập, thực hiện, chấm dứt các giao dịch liên quan đến nhà ở phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng.
- Nếu nhà ở là tài sản riêng của một bên vợ hoặc chồng thì người vợ hoặc chồng có quyền xác lập, thực hiện, chấm dứt giao dịch liên quan đến tài sản đó nhưng phải kèm điều kiện đảm bảo chỗ ở cho người còn lại và cho các con.
Như vậy, đối với tài sản đặc biệt là nhà ở- nơi ở duy nhất của vợ chồng thì việc định đoạt tài sản này phải dựa trên thỏa thuận của hai vợ chồng. Trong trường hợp nhà ở là nơi ở duy nhất của vợ chồng nhưng lại là tài sản riêng của cá nhân vợ, chồng thì cá nhân vợ, chồng có quyền định đoạt đối với tài sản đó. Song quyền tự định đoạt này bị hạn chế bằng việc chủ sở hữu tài sản riêng đó khi định đoạt tài sản của mình vẫn phải đảm bảo quyền lợi cho người khác (quyền có chỗ ở). Nói cách khác, trường hợp nhà ở là nơi ở duy nhất của vợ chồng dù là tài sản chung hay tài sản riêng thì việc định đoạt tài sản đó vẫn phải đảm bảo nhu cầu thiết yếu về chỗ ở của vợ, chồng.
Tóm lại, có thể hiểu, theo quy định của pháp luật khi thực hiện các giao dịch liên quan tới nhà ở là nơi ở duy nhất của vợ chồng thì vợ chồng phải có sự thỏa thuận với nhau chứ không được tự ý một mình thực hiện các giao dịch đó. Nếu 1 bên tự ý tiến hành giao dịch mà không có sự đồng ý của bên còn lại thì giao dịch dân sự sẽ bị vô hiệu.
Hơn nữa, Điều 131 Bộ luật dân sự 2015 quy định về Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu:
“1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập.
Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả.
Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó.
Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường.
Việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân do Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định.”
Trên đây là một số thông tin chi tiết về Điều 31 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Hy vọng với những thông tin ACC đã cung cấp sẽ giúp bạn hiểu thêm về vấn đề trên. Nếu bạn cần hỗ trợ tư vấn pháp lý hoặc sử dụng các dịch vụ pháp lý khác từ Công ty Luật ACC, hãy đừng ngần ngại mà liên hệ với chúng tôi để được hỗ trợ nhanh chóng. ACC cam kết sẽ giúp bạn có trải nghiệm tốt nhất về các dịch vụ mà mình cung cấp đến khách hàng. Chúng tôi luôn đồng hành pháp lý cùng bạn.
Gmail: [email protected]
Website: accgroup.vn
Nội dung bài viết:
Bình luận