Trong những năm gần đây, hoạt động thương mại ngày càng phát triển mạnh mẽ với sự tham gia đông đảo của các tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ và các tổ chức, cá nhân tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ. Do đó, hoạt động của thương nhân diễn ra rất sôi nổi và ngày càng mở rộng ở nhiều thị trường trên thế giới. Chính vì thế, ở thời điểm hiện tại, các vấn đề liên quan đến thương nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ theo quy định của pháp luật Việt Nam trở thành một trong số những nội dung rất được quan tâm đối với các chủ thể áp dụng pháp luật Việt Nam. Những người thương nhân cần phải biết về quy định pháp luật thương mại. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, mời bạn đọc cùng theo dõi bài viết: Điều 294 Luật Thương mại 2005 chi tiết.
Điều 294 Luật Thương mại 2005 chi tiết
1. Vi phạm hợp đồng trong thương mại là gì?
Theo quy định của pháp luật thương mại Việt Nam tại khoản 12 Điều 3 Luật Thương mại 2005 quy định: “Vi phạm hợp đồng là một bên không thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ theo thỏa thuận giữa các bên hoặc theo quy định của luật này". Và theo khoản 13 Điều 3 Luật thương mại 2005 quy định: “Vi phạm cơ bản là sự vi phạm hợp đồng của một bên gây thiệt hại cho bên kia đến mức làm cho bên kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng”.
Hành vi vi phạm hợp đồng là căn cứ pháp lý để áp dụng đối với tất cả các hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng. Hành vi vi phạm hợp đồng là xử sự của các chủ thể hợp đồng không phù hợp với các nghĩa vụ đã cam kết trong hợp đồng. Trong thực tiễn để xác định việc có hay không một hành vi vi phạm hợp đồng thương mại phải chứng minh được hai vấn đề. Đó là, quan hệ hợp đồng hợp pháp giữa các bên và có hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các nghĩa vụ theo hợp đồng.
2. Điều 294 Luật Thương mại 2005
Điều 294. Các trường hợp miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm
1. Bên vi phạm hợp đồng được miễn trách nhiệm trong các trường hợp sau đây:
a) Xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã thoả thuận;
b) Xảy ra sự kiện bất khả kháng;
c) Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia;
d) Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng.
2. Bên vi phạm hợp đồng có nghĩa vụ chứng minh các trường hợp miễn trách nhiệm.
3. Phân tích Điều 294 Luật Thương mại 2005
Các trường hợp miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm hợp đồng trong thương mại
1. Xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã thỏa thuận
Các bên có thể thỏa thuận trước trong hợp đồng về các trường hợp về bên vi phạm được miễn trách nhiệm. Các trường hợp đó có thể không được pháp luật quy định mà hoàn toàn theo sự thỏa thuận giữa các bên. Chính vì thế, yếu tố tự nguyện khi giao kết hợp đồng là rất quan trọng, vì nếu chứng minh được là điều khoản được miễn hợp đồng được giao kết do nhầm lẫn, lừa dối hoặc đe dọa thì điều khoản miễn trách nhiệm sẽ bị vô hiệu.
2. Xảy ra sự kiện bất khả kháng
Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 294 Luật thương mại 2005, bên vi phạm hợp đồng được miễn trách nhiệm trong trường hợp xảy ra sự kiện bất khả kháng. Điều này có nghĩa là hợp đồng có quy định hay không thì khi xảy ra sự kiện bất khả kháng dẫn tới việc vi phạm hợp đồng thì bên vi phạm vẫn được miễn trách nhiệm.
Tuy nhiên, quy định trên lại chỉ nghi nhận sự kiện bất khả kháng là căn cứ miễn trách nhiệm mà không quy định cụ thể thế nào là sự kiện bất khả kháng và điều kiện áp dụng. Xét theo mối quan hệ giữa luật chung và luật riêng, trong đó luật thương mại là luật riêng trong lĩnh vực thương mại, còn Bộ luật dân sự là luật chung, có thể dẫn chiếu quy định của Bộ luật Dân sự về sự kiện bất khả kháng để áp dụng trong lĩnh vực thương mại. Theo khoản 1 Điều 156 BLDS 2015 quy định: “Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép”. Theo thông lệ chung, sự kiện bất khả kháng (force majeure) thường được hiểu có thể là những hiện tượng do thiên nhiên gây ra (thiên tai) như lũ lụt, hỏa hoạn, bão, động đất, sóng thần… hoặc các hiện tượng xã hội như chiến tranh, bạo loạn, đảo chính, đình công, cấm vận, thay đổi chính sách của chính phủ… Tất nhiên, việc chứng minh có tồn tại sự kiện bất khả kháng thuộc về nghĩa vụ của bên vi phạm hợp đồng, nhưng việc bên đó được hay không được miễn trừ lại phụ thuộc vào bên bị vi phạm hoặc cơ quan chức năng có chấp nhận nó là sự kiện bất khả kháng hay không.
3. Hành vi vi phạm hoàn toàn do lỗi của bên kia
Lỗi được coi là một trong những yếu tố để xác định trách nhiệm dân sự. Lỗi này có thể là hành động hoặc không hành động của bên vi phạm. Tuy nhiên, sự vi phạm của 1 bên có nguyên nhân từ lỗi của phía bên kia, ví dụ: bên vi phạm đã làm theo những chỉ dẫn không rõ ràng của bên bị vi phạm dẫn đến thiệt hại. Trong trường hợp này, bên vi phạm đã loại trừ lỗi cấu thành nên hành vi vi phạm, bên vi phạm sẽ chịu những rủi ro về thiệt hại này.
Tuy nhiên, khi áp dụng căn cứ này việc vi phạm hợp đồng của một bên chỉ được coi là căn cứ miễn trách nhiệm cho bên kia (cũng có hành vi vi phạm) khi việc vi phạm này là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hành vi vi phạm. Căn cứ để không thì chưa đầy đủ. Cần xác định lỗi của bên kia trong trường hợp này phải là nguyên nhân trực tiếp và là tiền đề của việc không thực hiện nghĩa vụ.
4. Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng.
Quyết định của cơ quan nhà nước phải làm phát sinh nghĩa vụ của bên vi phạm, tức là phải thực hiện hoặc không thực hiện một hành vi nhất định nào đó dẫn tới hành vi vi phạm hợp đồng. Rõ ràng các bên không lường trước được những vi phạm và thiệt hại khi có một quyết định của Nhà nước xen vào.
Ví dụ: Ngày 06/12/2018, Công ty An Nhiên (Bên A) ký hợp đồng mua bán của công ty khai khác và mua bán khoáng sản Thiên Phú (Bên B) 05 tấn quặng. Hai bên thỏa thuận ngày 05/1/2019 sẽ giao hàng. Tuy nhiên, ngày 01/01/2019 Thủ tướng Chính phủ có quyết định khai thác và mua bán quặng trong cả nước. Do đó, đến ngày 05/01/2019 bên B không thể giao hàng được cho bên A. Ở ví dụ này có thể thấy hợp đồng không thực hiện được là do có quyết định của người có thẩm quyền nên hai bên không thể thực hiện được. Nên bên A không thể buộc bên B tiếp tục.
Tuy nhiên, đối với trường hợp này pháp luật nên có hướng dẫn cụ thể về quyết định nào của cơ quan quản lý nhà nước và quyết định này được đưa ra với mục đích gì thì sẽ trở thành căn cứ cho việc nhiễm trách nhiệm? Hay tất cả quyết định của mọi cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ đều được coi là trường hợp miễn trách nhiệm? Việc quy định rõ ràng về vấn đề này sẽ nâng cao hơn trách nhiệm của cơ quan nhà nước khi ban hành quyết định, đồng thời minh bạch hóa các quy định của pháp luật giúp các bên an tâm hơn khi tham gia vào quan hệ hợp đồng.
Trên đây là các nội dung giải đáp của chúng tôi về Điều 294 Luật Thương mại 2005 chi tiết. Trong quá trình tìm hiểu, nếu như các bạn cần Công ty Luật ACC hướng dẫn các vấn đề pháp lý vui lòng liên hệ với chúng tôi để được giải đáp.
Nội dung bài viết:
Bình luận