Hiện nay chúng ta không còn quá xa lạ với những thủ tục hành chính nhờ tới những giấy tờ pháp luật quy định phải công chứng. Theo đó người yêu cầu công chứng phải thực hiện theo đúng trình tự thủ tục tiến hành công chứng tại văn phòng công chứng của luật công chứng. Nếu có những hành vi công chứng giấy tờ giả, khai thông tin công chứng sai…Thì sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật.
Trong bài viết dưới đây, Công ty Luật ACC xin gửi tới Quý khách hàng thông tin câu trả lời cho câu hỏi “Điều 2 luật công chứng”.Mời quý khách cùng theo dõi..
1.Công chứng.
Điều 2 Luật công chứng năm 2014 quy định khái niệm công chứng như sau:“ Công chứng là việc Công chứng viên của một tổ chức hành nghề công chứng chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự khác bằng văn bản (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch), tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức, xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt (sau đây gọi là bản dịch) mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng”
Đây là khái niệm hoàn thiện nhất, nêu rõ chủ thể và khách thể của hoạt động công chứng; bản chất, đặc điểm và mục đích của hoạt động công chứng.
Từ sự phân tích về những quan niệm khác nhau về công chứng và khái niệm mới nhất của công chứng được nêu tại Luật công chứng năm 2014 cho thấy công chứng có những đặc điểm sau:
Một là, công chứng là hành vi do Công chứng viên thực hiện
Có thể thấy rằng tính chất chung của công chứng là hoạt động nghề nghiệp và Công chứng viên là những người có kiến thức chuyên môn và trình độ cao về lĩnh vực pháp luật để thực hiện các công việc về bảo đảm an toàn pháp lý cho các bên khi tiến hành xác thực các giấy tờ và tài liệu. Công chứng viên là những nhà chuyên môn về pháp luật có đủ tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật. Tại Khoản 2, Điều 2, Luật công chứng năm 2014 quy định: “Công chứng viên là người có đủ tiêu chuẩn theo quy định của Luật này, được Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm để hành nghề công chứng”.
Hai là, nội dung cơ bản của công chứng là chứng nhận các hợp đồng và lập hợp đồng, giao dịch theo yêu cầu của công dân, tổ chức và chứng nhận các hợp đồng, giao dịch theo quy định của pháp luật.
Việc lập hợp đồng, giao dịch theo yêu cầu của người yêu cầu công chứng và chứng nhận các hợp đồng, giao dịch theo quy định của pháp luật chính là việc tạo nên các văn bản công chứng. Trước khi đi vào xác thực hợp đồng, giao dịch được chính xác thì Công chứng viên sẽ phải xác định đúng người yêu cầu công chứng. Khâu này được xem là quan trọng. Bởi, nó sẽ tạo tiền đề cho Công chứng viên thực hiện tốt các khâu sau trong công việc của mình, đó là xác định đúng chủ thể, khách thể của hợp đồng, giao dịch. Không chỉ những thế mà nó còn ngăn ngừa những trường hợp mạo danh, lừa đảo, không trung thực. Và bên cạnh đó, Công chứng viên cần phải xác thực nội dung của hợp đồng, giao dịch nhằm bảo đảm cho chúng có giá trị chứng cứ. Trong pháp luật về tố tụng, khi nói đến chứng cứ thì bao giờ cũng đề cao tính xác thực của sự kiện, tình tiết có thực, khách quan. Như vậy, ngoài việc xác thực văn bản công chứng thể hiện trọn vẹn, chính xác những nội dung mà hai bên đề ra thì còn quan tâm đến điều khoản và điều kiện của hợp đồng, giao dịch đúng theo quy định của pháp luật, không trái đạo đức xã hội của bản dịch, giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hay từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt và phải chịu trách nhiệm về tính hợp pháp của hợp đồng giao dịch đã công chứng đó.
Chứng nhận các hợp đồng, giao dịch theo quy định của pháp luật là việc của Công chứng viên, bằng nghiệp vụ chuyên môn của mình xác nhận tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch. Do đó việc xác nhận của Công chứng viên là vô cũng quan trọng. Nếu không có Công chứng viên xác nhận thì về sau rất dễ xảy ra những tranh chấp mà Tòa án không thể xác minh và giải quyết được.
Tóm lại các loại hợp đồng giao dịch của cá nhân tổ chức yêu cầu thực hiện hoạt động công chứng hay các loại hợp đồng giao dịch mà pháp luật bắt buộc thì khi thực hiện công chứng đều phải tuân thủ các nguyên tắc, trình tự, thủ tục được quy định trong Luật công chứng năm 2014, các quy định khác của pháp luật và các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết và công nhận. Dù các hợp đồng giao dịch bắt buộc phải công chứng hay do các cá nhân, tổ chức yêu cầu thì về mặt pháp lý, hoạt động công chứng này đều mang lại lợi ích cho công dân, tổ chức. Nó mang lại quyền và bảo vệ lợi ích hợp pháp cho họ.
Ba là, văn bản công chứng có giá trị pháp lý và giá trị hiện thực.
Điều 5 Luật công chứng năm 2014 quy định giá trị của văn bản công chứng như sau:
“1. Văn bản công chứng có hiệu lực kể từ ngày được Công chứng viên ký và đóng dấu của tổ chức hành nghề công chứng.
- Hợp đồng, giao dịch được công chứng có hiệu lực thi hành đối với các bên liên quan; trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ của mình thì bên kia có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp các bên tham gia hợp đồng, giao dịch có thỏa thuận khác.
- Hợp đồng, giao dịch được công chứng có giá trị chứng cứ; những tình tiết, sự kiện trong hợp đồng, giao dịch được công chứng không phải chứng minh, trừ trường hợp bị Tòa án tuyên bố là vô hiệu.
- Bản dịch được công chứng có giá trị sử dụng như giấy tờ, văn bản được dịch”.
Văn bản công chứng do Công chứng viên lập theo trình tự, thể thức bắt buộc, ghi lại chính xác thời gian, không gian, ý chí, nguyện vọng cũng như năng lực chủ thể của các bên khi tham gia giao kết hợp đồng, giao dịch.
Để quyết định sự tồn tại của thể chế công chứng trong đời sống xã hội thì không thể không đề cập đến giá trị pháp lý của văn bản công chứng. Pháp luật coi văn bản công chứng có giá trị chứng cứ là do tính xác thực của các tình tiết, sự kiện có trong văn bản đó đã được Công chứng viên xác nhận như đã phân tích ở ý trên. Xét về phương diện nhà nước thì văn bản công chứng sẽ là bằng chứng khi được đưa ra trong quá trình tố tụng mà không ai có thể phản bác được, trừ trường hợp có người thứ ba hoặc văn bản công chứng đó được lập một cách trái pháp luật thì văn bản công chứng đó sẽ không có hiệu lực khi Tòa án tuyên bố vô hiệu. Còn xét về phương diện kinh tế thì văn bản công chứng sẽ giúp cho cá nhân, tổ chức thuận lợi hơn trong quá trình giao dịch. Đồng thời đây là cơ sở pháp lý để giải quyết sự việc nếu hai bên xảy ra tranh chấp, vì khi giải quyết thì dĩ nhiên sẽ bắt buộc các bên tham gia giao dịch phải xác nhận tính xác thực của hợp đồng cũng như trách nhiệm pháp lý khi tham gia giao dịch. Cho nên việc mà các hợp dồng, giao dịch liên quan đến kinh tế đều bắt buộc phải công chứng để tránh rắc rối khi xảy ra kiện tụng.
Bốn là, Nhà nước thực hiện sự quản lý bằng pháp luật đối với các tổ chức và hoạt động công chứng.
Hoạt động công chứng là hoạt động mang tính dịch vụ công. Công chứng là một biện pháp phòng ngừa tranh chấp, giúp công dân, tổ chức thực hiện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình bằng pháp luật. Hoạt động công chứng là hoạt động bổ trợ tư pháp, cung cấp chứng cứ cho hợp đồng tư pháp nhưng hoàn toàn khác với các hoạt động của các cơ quan tư pháp.
Trước đây, công chứng ở Việt Nam hoàn toàn do các cơ quan nhà nước thực hiện, mang tính quyền lực nhà nước. Sau khi Luật công chứng năm 20006 có hiệu lực, tổ chức hành nghề công chứng gồm Phòng công chứng (do Uỷ ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh thành lập, trực thuộc Sở Tư pháp, có trụ sở và con dấu riêng))và Văn phòng công chứng (do Công chứng viên thành lập, hoạt động theo quy định của Luật doanh nghiệp). Cả hai loại hình này đều được đặt dưới sự quản lý của nhà nước bằng pháp luật.
Năm là, hoạt động công chứng là hoạt động mang tính chyên môn, nghề nghiệp.
Nội dung cơ bản của hoạt động công chứng là lập các hợp đồng, giấy tờ theo yêu cầu của đương sự và chứng nhận các hợp đồng, giấy tờ theo quy định của pháp luật, bởi vậy hoạt động công chứng là hoạt động mang tính chuyên môn và nghề nghiệp của Công chứng viên. Chỉ có Công chứng viên, người được đào tạo về chuyên môn, kỹ năng, có đủ điều kiện, được nhà nước bổ nhiệm và được cơ quan nhà nước trao quyền mới được thực hiện hoạt động này. Khi Công chứng viên thực hiện nhiệm vụ của mình, bằng những kiến thức chuyên môn nghề nghiệp họ sẽ giúp khách hàng thể hiện ý chí, nguyện vọng, đảm bảo ý chí của họ phù hợp với pháp luật quy định, không trái với đạo đức xã hội. Ngoài ra còn kiểm tra, tư vấn để khách hàng hiểu được một cách chính xác, rõ ràng nhất với ý chí, nguyện vọng của họ được thể hiện trong các văn bản công chứng. Công chứng viên còn phải giải thích rõ cho khách hàng biết họ sẽ phải chịu những hậu quả pháp lý gì và có trách nhiệm như thế nào khi tranh chấp xảy ra nếu có sự dối trá, giả tạo, không trung thực, trong quá trình giao kết hợp đồng.
Đây chính là đặc điểm cơ bản nhất của hoạt động công chứng và cũng là căn cứ quan trọng để phân biệt hoạt động công chứng với các hoạt động mang tính chất hành chính của các cơ quan công quyền.
Từ đó có thể thấy rằng hoạt động công chứng là hoạt động nghề nghiệp có tính chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa cao của Công chứng viên khác với hoạt động chuyên môn thuần túy của các công chức hành chính.
2.Công chứng viên:
Theo quy định tại khoản 2 Điều 2 Luật công chứng năm 2014, Công chứng viên là người có đủ tiêu chuẩn theo quy định của Luật công chứng năm 2014, được Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm để hành nghề công chứng.
Công chứng viên là những nhà chuyên môn về pháp luật, chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của các loại giấy tờ, văn bản và do Bộ Tư pháp bổ nhiệm, miễn nhiệm và chịu trách nhiệm tiếp nhận hoặc lập các hợp đồng, giao dịch theo yêu cầu của người yêu cầu công chứng, đảm bảo cho các hợp đồng, giao dịch sau khi được chứng nhận có giá trị pháp lý như một văn bản của cơ quan công quyền.
Công chứng viên làm việc trong các Văn phòng công chứng không phải là công chức hay viên chức vì Văn phòng công chứng hoạt động với mô hình công ty hợp danh. Mặc dù mang hình thức tự do nhưng vẫn phải tuân theo quy định của nhà nước và đặt dưới sự kiểm soát của nhà nước. Còn Công chứng viên của Phòng công chứng sẽ được coi là viên chức khi thông qua thi tuyển viên chức và sẽ được hưởng lương từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy đinh của pháp luật. Tuy nhiên, họ đều phải chịu trách nhiệm như nhau đối với các văn bản công chứng do mình thực hiện. Có thể thấy rằng, hiện nay Luật công chứng năm 2014 đã có sự thay đổi, chi tiết hơn cụ thể hơn, cụ thể là giao cho Công chứng viên của tổ chức hành nghề quyền công chứng và phải chịu trách nhiệm về tính chính xác của nội dung bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài và ngược lại mà trước đó Luật công chứng năm 2006 chưa quy định.
3.Người yêu cầu công chứng.
Người yêu cầu công chứng là cá nhân, tổ chức Việt Nam hoặc cá nhân, tổ chức nước ngoài có yêu cầu công chứng hợp đồng, giao dịch, bản dịch theo quy định.
Người yêu cầu công chứng là cá nhân phải có năng lực hành vi dân sự.
Trường hợp người yêu cầu công chứng là tổ chức thì việc yêu cầu công chứng được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật hoặc người đại diện theo ủy quyền của tổ chức đó.
Người yêu cầu công chứng phải xuất trình đủ giấy tờ cần thiết liên quan đến việc công chứng và chịu trách nhiệm về tính chính xác, tính hợp pháp của các giấy tờ đó.
Ví dụ Trường hợp người yêu cầu công chứng không đọc được, không co khả năng nghe được, không ký, điểm chỉ được hoặc trong những trường hợp khác do pháp luật quy định thì việc công chứng phải có người làm chứng.
Người làm chứng phải là người từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và không có quyền, lợi ích hoặc nghĩa vụ liên quan đến việc công chứng. Người làm chứng do người yêu cầu công chứng mời, nếu người yêu cầu công chứng không mời được thì công chứng viên chỉ định theo quy định của pháp luật.
4.Tổ chức hành nghề công chứng
Tổ chức hành nghề công chứng bao gồm Phòng công chứng và Văn phòng công chứng được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật này và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan.
Trước khi Luật công chứng năm 2014 có hiệu lực pháp luật , trong quá trình tổ chức thực hiện hoạt động công chứng còn nhiều hạn chế, bất cập. Tuy nhiên, từ khi Luật công chứng năm 2014 ra đời đã kịp thời giải quyết được nhiều khó khăn, vướn mắc, phù hợp với tiến trình cải cách hành chính, đặc biệt là cụ thể hóa chủ trương xã hội hóa hoạt động bổ trợ tư pháp. Cùng với đó, các Văn phòng công chứng cũng xuất hiện bên cạnh các Phòng công chứng nhà nước, điều này đã dánh dấu được bước chuyển giao chính thức một phần các hoạt động mà trước đó được xem là chỉ có thể nhà nước thực hiện sang cho các cá nhân, tổ chức phi nhà nước để nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng phục vụ và đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của xã hội.
5.Giới thiệu dịch vụ công ty luật ACC
Đến với ACC chúng tôi, Quý khách hàng sẽ được cung cấp những dịch vụ tư vấn tốt nhất với đội ngũ Luật sư dày dặn kinh nghiệm cùng với chuyên viên pháp lý luôn có mặt trên 63 tỉnh/thành phố và đang thực hiện dịch vụ tư vấn pháp lý.
Trên đây là toàn bộ nội dung tư vấn của Công ty Luật ACC liên quan đến nội dung “điều 2 Luật công chứng”. Còn bất cứ thắc mắc gì quý khách hàng vui lòng liên hệ với chúng tôi thông qua tổng đài tư vấn hoặc gửi thư về các thông tin dưới đây. Chúng tôi hy vọng nhận được nhiều ý kiến dống góp của quý khách hàng trên cả nước để chung tôi ngày một chuyên nghiệp hơn.
Hotline: 19003330
Zalo: 084 696 7979
Gmail: [email protected]
Website: accgroup.vn
Nội dung bài viết:
Bình luận