Bộ Luật Tố tụng Dân sự năm 2015 ra đời với 517 điều, được bố cục thành 10 phần, 42 chương. So với Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành (sau đây gọi là BLTTDS năm 2011), BLTTDS năm 2015 giữ nguyên 63 điều; sửa đổi, bổ sung 350 điều; bổ sung mới 104 điều; bãi bỏ 07 điều. Với nhiều quy định mới, quan trọng liên quan trực tiếp đến hoạt động tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng ; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, các nhân khi tham gia tố tụng. Luật ACC xin gửi tới quý bạn đọc bài viết: “Một số điểm mới của Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015”.

1. Về nguyên tắc cơ bản
Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng (Khoản 2 Điều 4 )
Quy định mới này nhằm thể chế hóa tinh thần cải cách tư pháp: Tòa án phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người; mọi tranh chấp, khiếu kiện của cá nhân, cơ quan, tổ chức về dân sự thì Tòa án phải có trách nhiệm giải quyết. Tuy nhiên, BLTTDS đã giới hạn vụ việc dân sự chưa có điều luật để áp dụng mà Tòa án thụ lý giải quyết là vụ việc dân sự thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự nhưng tại thời điểm vụ việc dân sự đó phát sinh và cơ quan, tổ chức, cá nhân yêu cầu Tòa án giải quyết chưa có điều luật để áp dụng.
Bảo đảm tranh tụng trong xét xử (Điều 24)
BLTTDS sửa đổi, bổ sung nguyên tắc “Bảo đảm tranh tụng trong xét xử”, nguyên tắc này bảo đảm cho đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện quyền tranh tụng từ khi khởi kiện thụ lý vụ án cho đến khi giải quyết xong vụ án trong xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Nội dung của tranh tụng được thể hiện ở những điểm cơ bản như sau:
- Đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền thu thập, giao nộp tài liệu, chứng cứ kể từ khi Tòa án thụ lý vụ án dân sự; trình bày, đối đáp, phát biểu quan điểm, lập luận về đánh giá chứng cứ và pháp luật áp dụng để bảo vệ yêu cầu, quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc bác bỏ yêu cầu của người khác theo quy định của Bộ luật này.
- Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự theo quy định của BLTTDS. Trong các trường hợp xét thấy cần thiết hoặc theo yêu cầu của đương sự theo quy định của BLTTDS thì Tòa án tiến hành thu thập tài liệu, chứng cứ.
- Trong quá trình tố tụng, các chứng cứ của vụ án phải được công khai, trừ trường hợp không được công khai định theo quy định tại Khoản 2 Điều 109 của BLTTDS. Các đương sự đều có quyền được biết, ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do đương sự khác xuất trình hoặc do Tòa án thu thập (trừ tài liệu, chứng cứ không được công khai). Đương sự có nghĩa vụ gửi cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của họ bản sao đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ đã giao nộp cho Tòa án (trừ tài liệu, chứng cứ không được công khai).
- Trong quá trình xét xử, mọi tài liệu, chứng cứ phải được xem xét đầy đủ, khách quan, toàn diện, công khai, trừ trường hợp không được công khai theo quy định tại Khoản 2 Điều 109 của BLTTDS. Tòa án điều hành việc tranh tụng, Hội đồng xét xử chỉ hỏi những vấn đề chưa rõ và căn cứ vào kết quả tranh tụng để ra bản án, quyết định.
2. Về thẩm quyền của Tòa án
BLTTDS quy định 3 vấn đề mới về thẩm quyền của Tòa án như sau:
1) Tòa án có thẩm quyền giải quyết tất cả các tranh chấp, các yêu cầu về dân sự, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật.
2) Về thẩm quyền của Tòa án theo cấp xét xử:
- Tòa án nhân dân cấp huyện giải quyết sơ thẩm hầu hết các vụ việc dân sự.
- Tòa án nhân dân cấp tỉnh giải quyết theo thủ tục sơ thẩm vụ việc mà có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp cho cơ quan đại diện nước Cộng hoà XHCN Việt Nam ở nước ngoài, cho Tòa án, cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài hoặc những tranh chấp mà Tòa án nhân dân cấp tỉnh tự mình lấy lên để giải quyết hoặc theo đề nghị của Tòa án nhân dân cấp huyện; phúc thẩm vụ việc mà bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp huyện bị kháng cáo, kháng nghị. Tòa án nhân dân cấp tỉnh không còn thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật như trước đây mà chỉ có thẩm quyền kiểm tra bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp huyện khi phát hiện có vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới theo quy định của BLTTDS thì kiến nghị với Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao xem xét, kháng nghị.
- Tòa án nhân dân cấp cao giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ bằng Hội đồng xét xử gồm 03 Thẩm phán hoặc Hội đồng toàn thể thành viên Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao.
- Tòa án nhân dân tối cao giám đốc thẩm những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án khác bằng Hội đồng xét xử gồm 05 Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hoặc toàn thể thành viên Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
3) Thẩm quyền của Tòa chuyên trách:
- Thẩm quyền của các Tòa chuyên trách Tòa án nhân dân cấp huyện (Điều 36):
+ Tòa dân sự Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ việc về dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện quy định tại Điều 35 của BLTTDS.
+ Tòa gia đình và người chưa thành niên Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ việc về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện quy định tại Điều 35 của BLTTDS.
+ Đối với Tòa án nhân dân cấp huyện chưa có Tòa chuyên trách thì Chánh án Tòa án có trách nhiệm tổ chức công tác xét xử và phân công Thẩm phán giải quyết vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện.
- Thẩm quyền của các Tòa chuyên trách Tòa án nhân dân cấp tỉnh (Điều 38):
+ Tòa dân sự Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm phúc thẩm những tranh chấp, yêu cầu về dân sự.
+ Tòa gia đình và người chưa thành niên Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm phúc thẩm những tranh chấp, yêu cầu về hôn nhân và gia đình.
+ Tòa kinh tế Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm những tranh chấp, yêu cầu về kinh doanh, thương mại.
+ Tòa lao động Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm những tranh chấp, yêu cầu về lao động.
3. Quyền và nghĩa vụ của đương sự
Để bảo đảm thực hiện tốt nguyên tắc tranh tụng trong suốt quá trình giải quyết vụ án, BLTTDS đã bổ sung quyền và nghĩa vụ của đương sự. Điều 70 BLTTDS quy định đương sự có 26 quyền và nghĩa vụ chung; theo Điều 71, nguyên đơn có 2 quyền riêng; theo Điều 72 thì bị đơn có 5 quyền riêng; theo Điều 73 thì người có quyền, nghĩa vụ liên quan có 3 quyền riêng. Đặc biệt trong các quyền và nghĩa vụ đó, BLTTDS đã quy định rõ các nghĩa vụ:
- Tôn trọng Tòa án, chấp hành nghiêm chỉnh nội quy phiên tòa; Nộp tiền tạm ứng án phí, tạm ứng lệ phí, án phí, lệ phí và chi phí tố tụng khác theo quy định của pháp luật; Cung cấp đầy đủ, chính xác địa chỉ nơi cư trú, trụ sở của mình; trong quá trình Tòa án giải quyết vụ việc nếu có thay đổi địa chỉ nơi cư trú, trụ sở thì phải thông báo kịp thời cho đương sự khác và Tòa án; Có nghĩa vụ gửi cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của họ bản sao đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ, trừ tài liệu, chứng cứ không được công khai theo quy định tại khoản 2 Điều 109 của BLTTDS. Trường hợp vì lý do chính đáng không thể sao chụp, gửi đơn khởi kiện, tài liệu, chứng cứ thì họ có quyền yêu cầu Tòa án hỗ trợ; Sử dụng quyền của đương sự một cách thiện chí, không được lạm dụng để gây cản trở hoạt động tố tụng của Tòa án, đương sự khác; trường hợp không thực hiện nghĩa vụ thì phải chịu hậu quả do Bộ luật này quy định.
4. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên trong tố tụng dân sự
Để bảo đảm lợi ích tốt nhất của trẻ em, BLTTDS quy định nguyên tắc: Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có trách nhiệm phải bảo vệ người chưa thành niên trong tố tụng dân sự. Đối với các vụ việc dân sự mà có đương sự là người chưa thành niên thì Viện kiểm sát phải tham gia các phiên tòa, phiên họp.
BLTTDS đã quy định nhiều thủ tục tố tụng đặc thù, phù hợp với người chưa thành niên như: Tòa án nhân dân sẽ xét xử kín (không xét xử công khai) trong trường hợp đặc biệt cần bảo vệ người chưa thành niên; đối với vụ án có đương sự là người chưa thành niên thì phải có Hội thẩm nhân dân là người đã hoặc đang công tác tại Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em; Hội đồng xét xử không công bố tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nếu cần giữ bí mật hoặc bảo vệ người chưa thành niên trong trường hợp đặc biệt; trường hợp phải giao người chưa thành niên cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục hoặc vụ án tranh chấp về nuôi con khi ly hôn hoặc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn thì phải xem xét nguyện vọng của người đó nếu người chưa thành niên từ đủ bảy tuổi trở lên; bảo vệ tối đa quyền của người làm chứng là người chưa thành niên.
5. Tăng cường bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động trong tố tụng dân sự
- Về trách nhiệm cung cấp, giao nộp tài liệu, chứng cứ và nghĩa vụ chứng minh trong vụ án lao động: Điều 91 BLTTDS quy định người sử dụng lao động có trách nhiệm cung cấp, giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án trong trường hợp người sử dụng lao động đang quản lý, lưu giữ tài liệu, chứng cứ đó. Người lao động khởi kiện vụ án đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động thuộc trường hợp người sử dụng lao động không được thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hoặc trường hợp không được xử lý kỷ luật lao động đối với người lao động theo quy định của pháp luật về lao động thì nghĩa vụ chứng minh thuộc về người sử dụng lao động.
- Về Hội đồng xét xử vụ án lao động: Quy định đặc thù áp dụng đối với vụ án lao động là Hội đồng xét xử phải có Hội thẩm nhân dân là người đã hoặc đang công tác trong tổ chức đại diện tập thể lao động hoặc người có kiến thức về pháp luật lao động.
- Về đại diện cho người lao động, tập thể người lao động: Về nguyên tắc, tổ chức đại diện tập thể lao động là người đại diện theo pháp luật cho tập thể người lao động khởi kiện vụ án lao động, tham gia tố tụng tại Tòa án khi quyền, lợi ích hợp pháp của tập thể người lao động bị xâm phạm; tổ chức đại diện tập thể lao động đại diện cho người lao động khởi kiện vụ án lao động, tham gia tố tụng khi được người lao động ủy quyền.
- Về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời để bảo vệ kịp thời quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động: buộc người sử dụng lao động tạm ứng tiền lương, tiền bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, chi phí cứu chữa tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp, tiền bồi thường, trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho người lao động và tạm đình chỉ thi hành quyết định đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, quyết định sa thải người lao động.
6. Về chứng cứ
1) Nhằm thể hiện rõ mô hình tố tụng “xét hỏi kết hợp tranh tụng”, BLTTDS đã quy định rõ quyền và nghĩa vụ của đương sự trong việc cung cấp, thu thập và giao nộp chứng cứ chứng minh:
- Đương sự nào yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp. Đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mình phải thể hiện bằng văn bản và phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho sự phản đối đó... Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo những chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ việc.
- Do điều kiện đặc thù, để bảo vệ cho người yếu thế, BLTTDS quy định rõ có một số trường hợp nghĩa vụ chứng minh thuộc về người bị yêu cầu như:
+ Người tiêu dùng khởi kiện không có nghĩa vụ chứng minh lỗi của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ bị kiện có nghĩa vụ chứng minh mình không có lỗi gây ra thiệt hại theo quy định của Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng;
+ Đương sự là người lao động trong vụ án lao động mà không cung cấp, giao nộp được cho Tòa án tài liệu, chứng cứ vì lý do tài liệu, chứng cứ đó đang do người sử dụng lao động quản lý, lưu giữ thì người sử dụng lao động có trách nhiệm cung cấp, giao nộp tài liệu, chứng cứ đó cho Tòa án;
+ Người lao động khởi kiện vụ án đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động thuộc trường hợp người sử dụng lao động không được thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hoặc trường hợp không được xử lý kỷ luật lao động đối với người lao động theo quy định của pháp luật về lao động thì nghĩa vụ chứng minh thuộc về người sử dụng lao động.
2) Về giao nộp chứng cứ (Điều 96)
Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền và nghĩa vụ giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án. Trường hợp tài liệu, chứng cứ đã được giao nộp chưa bảo đảm đủ cơ sở để giải quyết vụ việc thì Thẩm phán yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung tài liệu, chứng cứ. Nếu đương sự không giao nộp hoặc giao nộp không đầy đủ tài liệu, chứng cứ do Tòa án yêu cầu mà không có lý do chính đáng thì Tòa án căn cứ vào tài liệu, chứng cứ mà đương sự đã giao nộp và Tòa án đã thu thập để giải quyết vụ việc dân sự.
7. Về bổ sung các phương thức tống đạt mới
BLTTDS đã quy định rõ các phương thức tống đạt, bổ sung thêm các phương thức tống đạt mới thông qua việc cấp, tống đạt, thông báo bằng phương tiện điện tử theo yêu cầu của đương sự hoặc người tham gia tố tụng khác phù hợp với quy định của pháp luật về giao dịch điện tử hoặc bằng phương thức khác áp dụng đối với các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài.
8. Về thời hiệu khởi kiện (Điều 184, Điều 185, điểm e, khoản 1 Điều 217)
Nhằm tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự trong quan hệ dân sự, BLTTDS quy định Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc. Trường hợp Bộ luật dân sự và pháp luật khác không có quy định về thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự thì Tòa án không áp dụng thời hiệu đối với quan hệ pháp luật đó. Người được hưởng lợi từ việc áp dụng thời hiệu có quyền từ chối áp dụng thời hiệu, trừ trường hợp việc từ chối đó nhằm mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ.
Tòa án chỉ ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án vì lý do thời hiệu khởi kiện đã hết trong trường hợp đương sự có yêu cầu áp dụng thời hiệu trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ án và thời hiệu khởi kiện đã hết.
9. Dịch vụ tư vấn Tranh tụng Luật ACC
Trên đây là giải đáp của Luật ACC về những băn khoăn, thắc mắc liên quan đến chủ đề “Một số điểm mới của Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015”. Công ty Luật ACC – Đồng hành pháp lý cùng bạn, lắng nghe, nắm bắt thông tin khách hàng cung cấp để tiến hành tư vấn chuyên sâu và đầy đủ những vướng mắc, vấn đề khách hàng đang gặp phải liên quan đến tranh tụng.
Nội dung bài viết:
Bình luận