Cơ sở chính trị và pháp lý quan trọng là gì?

Pháp lý là một trong những thuật ngữ thường gặp trong đời sống pháp luật nói chung và đời sống xã hội nói riêng. Tuy nhiên, không phải ai cũng hiểu rõ về thuật ngữ này và các thuật ngữ liên quan, chính vì vậy còn gây nhầm lẫn với những khái niệm khác.Bài viết sau đây sẽ giới thiệu đến các bạn về Cơ sở chính trị và pháp lý quan trọng là gì? . Mời các bạn đọc bài viêt sau đây để biết thêm thông tin nhé. 

[caption id="attachment_720484" align="aligncenter" width="820"]Cơ sở chính trị và pháp lý quan trọng là gì? Cơ sở chính trị và pháp lý quan trọng là gì?[/caption]

1. Pháp lý là gì?

Từ trước đến nay, không chỉ người dân mà ngay cả những cá nhân, tổ chức đang làm công tác pháp luật đều có cách hiểu và sử dụng một cách thiếu chính xác và thống nhất thuật ngữ “pháp lý”, thậm chí có người còn đồng nhất khái niệm này với khái niệm “pháp luật”. Pháp lý hay các lý lẽ của pháp luật chính là cơ sở của lý luận, là sự vận dụng, áp dụng có khoa học về pháp luật, về phương pháp nghiên cứu một cách có hệ thống.

Khái niệm “pháp lý” xuất phát từ tiếng la – tin “Jus” nghĩa là quy định của pháp luật. Tuy nhiên, theo giải thích của Đại từ điển tiếng Việt thì “pháp lý là căn cứ, là cơ sở lý luận của luật pháp” (trang 1320).Ngoài ra, pháp lý chỉ những khía cạnh, phương diện khác nhau của đời sống pháp luật của một quốc gia. Như vậy, pháp lý là một khái niệm rộng hơn pháp luật, bao gồm cả những lý lẽ, lẽ phải, giá trị pháp lý bắt nguồn từ một sự việc, hiện tượng xã hội là cơ sở hình thành nên pháp luật.

2. Đặc điểm của pháp lý

–Thứ nhất: Pháp lý phải liên quan đến hệ thống các quy phạm pháp luật. Điều này có nghĩa là mọi lý lẽ, cơ sở hay căn cứ đều dựa vào pháp luật. Không có các quy phạm pháp luật thì không thể nói đến cái “lí lẽ” hay không thể chứng minh tính đúng sai, được phép hay không được phép.Ví dụ: Trách nhiệm pháp lý là hậu quả bất lợi mà chủ thể vi phạm pháp luật phải gánh chịu do pháp luật quy định do hành vi vi phạm pháp luật gây nên. Như vậy, căn cứ để xác định trách nhiệm pháp lý là các quy định pháp luật cụ thể trong từng lĩnh vực pháp luật.–Thứ hai: Pháp lý hay các lý lẽ của pháp luật chính là cơ sở của lý luận, là sự vận dụng, áp dụng có khoa học về pháp luật, về phương pháp nghiên cứu một cách có hệ thống. Với ý nghĩa này, pháp lý được xem là hệ quả tất yếu của pháp luật.Ví dụ: Trong nhiều trường hợp, các quy định pháp luật gây khó hiểu, nhầm lẫn trong việc áp dụng. Vì vậy, nhà nước đã cho phép thành lập các tổ chức tư vấn pháp lý hoặc trợ giúp về mặt pháp lý để có thể áp dụng pháp luật một cách thống nhất. Như vậy, có thể thấy, trong trường hợp này, thuật ngữ “tư vấn pháp lý” hay “trợ giúp pháp lý” sẽ được sử dụng thay cho cụm từ “tư vấn pháp luật” hoặc “trợ giúp pháp luật”.–Thứ ba: Pháp lý là cơ sở hình thành nên pháp luật hoặc các khía cạnh liên quan đến pháp luật.Ví dụ: Hiến pháp 2013 của Việt Nam quy định công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình xuất phát từ nguyên tắc tôn trọng quyền dân chủ của nhà nước xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam.Từ các đặc điểm trên, có thể thấy trong nhiều trường hợp không thể đồng nhất giữa “pháp luật” và “pháp lý”.

3.Cơ sở chính trị và pháp lý quan trọng là gì?

Pháp luật chịu sự ảnh hưởng của những yếu tố sau đây: chế độ kinh tế, thể chế chính trị, phong tục, tập quán, đạo đức, tôn giáo,… Còn chính trị bị tác động bởi những yếu tố sau: pháp luật, đạo đức, văn hóa, kinh tế, tôn giáo,… Do đó, có thể thấy, giữa pháp luật và chính trị có sự tác động biện chứng qua lại với nhau. Pháp luật quyết định đường lối chính trị, ngược lại, các tư tưởng, quan điểm chính trị hình thành nên các quy định pháp luật.

Pháp luật và chính trị là hai hiện tượng do yếu tố gì quyết định?
  • Trong hình thành, tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước

Bộ máy nhà nước là toàn bộ các hệ thống các cơ quan từ trung ương đến địa phương bao gồm: cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp…là một thiết chế phức tạp từ nhiều bộ phận cấu thành. Để bộ máy nhà nước hoạt động một cách có hiệu quả đòi hỏi phải xác định rõ mối quan hệ giữa chúng đúng với chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền trách nhiệm của mỗi loại cơ quan. Đồng thời cũng phải xác định rõ mối quan hệ giữa chúng phải có những phương pháp tổ chức hoạt động phù hợp để tạo ra một cơ chế đồng bộ trong quá trình thiết lập thực hiện quyền lực nhà nước. Tất cả những điều đó chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở vững chắc của những quy định của pháp luật. Khi một hệ thống các quy phạm pháp luật về tổ chức chưa đày đủ, đồng bộ, phù hợp và chính xác để làm cơ sở cho việc xác lập và hoạt động của bộ máy nhà nước thì dễ dẫn đến tình trạng trùng lặp có sự chồng chéo thực hiện không đúng chức năng giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Pháp luật còn quy định rõ ràng nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm từng cơ quan và của các cá nhân trong bộ máy nhà nước.

Ngược lại, bộ máy nhà nước cũng có sự tác động trực tiếp tới pháp luật. Một bộ máy nhà nước hoàn chỉnh và đại diện cho giai cấp tiến bộ trong xã hội sẽ đưa ra được hệ thống pháp luật phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội chung của đất nước. Từ đó, pháp luật trở nên tiến bộ và thể hiện đúng vị trí, vai trò của mình. Ví dụ như sau các cuộc cách mạng tư sản, với tư cách là một lực lương tiến bộ trong xã hội, giai cấp tư sản đã lên nắm quyền và ban hành hệ thống pháp luật tiến bộ phục vụ cho lợi ích của nhân dân lao động có thể kể đến các bản Hiến pháp của các nước Mỹ, Pháp…Tuy nhiên, khi đến với chế độ đế quốc tư bản chủ nghĩa, với sự lớn mạnh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, hệ thống pháp luật của các nước tư sản đã đi sâu vào bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản nên pháp luật đã bị làm mất tính tích cực vốn có của nó ban đầu.

  • Trong quan hệ ngoại giao giữa các quốc gia

Pháp luật luôn là môi trường ổn định cho việc thiết lập các mối quan hệ ngoại giao giữa các quốc gia với nhau. Tuy nhiên, sự phát triển của quan hệ ngoại giao cũng đòi hỏi ở pháp luật của các nước có sự thay đổi sao cho phù hợp với từng thời kì phát triển của mỗi quốc gia. Ví dụ, ở nước ta thời kì trước đổi mới, Đảng và Nhà nước ta có thực hiện chính sách ngoại giao khép kín. Nước ta chỉ thực hiện quan hệ ngoại giao, kinh tế, chính trị với các nước có nền chính trị xã hội chủ nghĩa. Hệ thống pháp luật của nước ta ngăn cấm các hoạt động đầu tư của tư bản nước ngoài vào. Trong thời đại mở cửa và hội nhập quốc tế như hiện nay thì điều đó không còn phù hợp nữa. Đường lối ngoại giao của nước ta hiện nay đã có sự thay đổi căn bản. Theo đó, chúng ta đã đặt quan hệ ngoại giao với hơn 180 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Đặc biêt 11/2007 Việt Nam đã tham gia và trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Điều này, đòi hỏi pháp luật của chúng ta phải có những thay đổi để phù hợp với xu thế chung. Đó là sự thay đổi thể hiện trong các Luật Đầu tư, Luật Thương Mại… Đặc biệt, Nhà nước ta đã có nhiều chính sách nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài như tạo môi trường đầu tư thông thoáng, giảm các loại thuế, rút gọn các thủ tục… Những chính sách đó đã được thể hiện tập trung trong pháp luật Việt Nam hiện hành.

  • Trong tư tưởng đường lối chính sách của giai cấp thống trị

Mối liên hệ giữa chính trị và pháp luật được thể hiện tập trung nhất trong các quan hệ đường lối chính sách của đảng cầm quyền với pháp luật của nhà nước. Pháp luật sẽ thể chế hóa các đường lối chính sách của đảng nghĩa là là làm cho các nội dung văn kiện nghị quyết của đảng được phát triển trở thành ý chí của nhà nước. Những đường lối chính sách của Đảng có vai trò quan trọng trong việc chỉ đạo về nội dung và phương hướng phát triển của pháp luật. Sự thay đổi trong đường lối chính sách của Đảng cũng dẫn đến sự thay đổi trong pháp luật.

 

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo