Cơ chế chính sách là gì? (cập nhật 2024)

Những vấn đề xoay quanh cuộc sống của chúng ta rất nhiều, những thông tin cần tiếp thu là nhiều vô số kể. Hiện nay bạn đọc có thể bắt gặp cụm từ Cơ chế chính sách, Cơ chế chính sách khi nghiên cứu những vấn đề về luật pháp. Để hiểu rõ thêm về khái niệm Cơ chế chính sách, mời bạn đọc cùng theo dõi bài viết sau với ACC:

Thoi Han Giai Quyet Don Khieu Nai To Cao Kien Nghi Phan Anh Moi Nhat 1

Cơ chế chính sách là gì? (cập nhật 2022)

1. Khái niệm Cơ chế chính sách

Cơ chế chính sách là những cách thức tác động của Nhà nước vào những lĩnh vực của đời sống xã hội để đạt được mục tiêu định hướng. Cơ chế chính sách điều chỉnh những quan hệ ít mang tính ổn định, mềm dẻo, linh động. Cơ chế chính sách có tác động nhanh và kịp thời, mạnh mẽ, toàn diện đến cả nhận thức, thái độ và hành vi của những chủ thể bị tác động. Đặc biệt, Cơ chế chính sách điều chỉnh động cơ, tạo động lực cho hành vi, hoạt động của những cá nhân và từng nhóm đối tượng cụ thể. Cơ chế chính sách có vai trò định hướng cho những hoạt động kinh tế – xã hội; khuyến khích những hoạt động kinh tế – xã hội theo định hướng; phát huy những mặt tốt của nền kinh tế thị trường và hạn chế những tiêu cực của nó; tạo lập sự cân đối trong phát triển; kiểm soát và phân phối nguồn lực cho quá trình phát triển; tạo lập môi trường thích hợp cho những hoạt động kinh tế – xã hội, giúp cho những thực thể vận động phát triển theo đúng quy luật; phối hợp hoạt động giữa những cấp độ, những bộ phận để tạo nên tính hệ thống chặt chẽ trong quá trình vận động của thực thể.

2. Vai trò của Cơ chế chính sách đối với pháp luật 

Thứ nhất, Cơ chế chính sách bao giờ cũng đi trước pháp luật, mang tính định hướng và là nền tảng để xây dựng pháp luật: Cơ chế chính sách phản ánh một cách trung thực, khách quan điều kiện kinh tế – xã hội tại thời điểm cụ thể và dự báo xu thế, khả năng phát triển trong tương lai. Nếu Cơ chế chính sách không làm tốt vai trò này thì việc thể chế hoá những Cơ chế chính sách thành những quy phạm pháp luật hoặc văn bản quy phạm pháp luật sẽ không có tính khả thi, hoặc kìm hãm sự phát triển của những mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội. Do đó, những nhà hoạch định Cơ chế chính sách phải là người có khả năng đúc kết thực tiễn và dự báo tương lai.

Thứ hai, Cơ chế chính sách có tính ổn định tương đối để pháp luật có điều kiện đi vào thực tế cuộc sống vì pháp luật luôn hướng tới mục tiêu chung, thống nhất nên trong mỗi giai đoạn nhất định, pháp luật có tính đồng bộ và ổn định. Điều này có nghĩa, khi một Cơ chế chính sách có quá nhiều thay đổi hoặc không có những lộ trình cụ thể sẽ gây khó khăn, phức tạp cho việc xây dựng và thực thi pháp luật. Vì vậy, những nhà hoạch định Cơ chế chính sách phải tính toán thời gian, điều kiện áp dụng để đưa Cơ chế chính sách vào cuộc sống. Đồng thời, họ phải là những người có khả năng chia việc thực thi Cơ chế chính sách thành những giai đoạn khác nhau với những mục tiêu và lộ trình cụ thể, tránh những bất lợi cho quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật.

Thứ ba, Cơ chế chính sách là một trong những nguồn tạo ra những thể chế pháp luật mới. Hay nói cách khác, do Cơ chế chính sách là công cụ thể hiện thái độ chính trị của Đảng lãnh đạo để điều chỉnh những quan hệ xã hội diễn ra theo định hướng, nên pháp luật được ban hành cùng những quy định cụ thể cho mỗi loại quan hệ. Thông thường, sau khi Nhà nước ban hành Cơ chế chính sách mới trên cơ sở định hướng Cơ chế chính sách của Đảng, Cơ chế chính sách này được thực thi thông qua việc cụ thể hoá thành những quy phạm pháp luật.

Như vậy, một Cơ chế chính sách mới được ban hành đồng thời tạo nên một lĩnh vực điều chỉnh mới của hệ thống pháp luật.

3. Vai trò của pháp luật đối với cơ chế chính sách 

Thứ nhất, pháp luật là căn cứ xây dựng Cơ chế chính sách, là công cụ để cụ thể hoá và thực thi Cơ chế chính sách. Cơ chế chính sách có tính linh hoạt và thích nghi với thực tế xã hội cao hơn pháp luật nhưng không thể tồn tại và phát huy tác dụng nếu thiếu pháp luật bởi hệ thống pháp luật tạo nên khuôn khổ pháp lý quy định và điều chỉnh tất những những quan hệ xã hội. Cơ chế chính sách do Nhà nước ban hành phải căn cứ vào hệ thống pháp luật hiện hành và về nguyên tắc không được trái với những quy định của pháp luật. Do đó, không thể xây dựng Cơ chế chính sách có hiệu quả và khả thi khi không nắm được tất cả những quy định pháp luật đang điều chỉnh lĩnh vực liên quan đến Cơ chế chính sách đó. Ví dụ: Điều 5, Hiến pháp năm 1992 quy định “ Nh àn ư ớc thực hiện Cơ chế chính sách phát triển về mọi mặt, từng b ư ớc nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng b ào dân tộc thiểu số”. Từ quy định này, nhiều Cơ chế chính sách dành cho đồng bào dân tộc thiểu số đã được hoạch định và thực thi như chương trình 135, 137 và những Cơ chế chính sách đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao dân trí, trình độ cho đồng bào…
Thứ hai, pháp luật phản ánh những Cơ chế chính sách ở điểm cân bằng. Điều này có nghĩa, do đặc trưng của pháp luật là điều chỉnh những mối quan hệ chủ yếu, cơ bản mang tính ổn định và được lặp đi lặp lại, do đó nếu không tìm ra được điểm cân bằng và tương đối ổn định thì Cơ chế chính sách khó có thể cụ thể hoá thành pháp luật.
Thứ ba, pháp luật được ban hành và đi vào cuộc sống sẽ giúp những quan hệ xã hội diễn ra có trật tự theo định hướng thống nhất với những Cơ chế chính sách hiện hành. Quá trình thực thi pháp luật giúp những đối tượng có ý thức chấp hành những quy định chung, trên cơ sở đó nêu cao tinh thần chấp hành Cơ chế chính sách một cách tự giác.

4. Câu hỏi thường gặp

Cơ chế chính sách và pháp luật tác động qua lại như thế nào?

Thứ nhất, pháp luật đôi khi cản trở việc hoạch định và thực thi Cơ chế chính sách mới. Về nguyên tắc, khi hoạch định Cơ chế chính sách phải căn cứ vào nhiều yếu tố, trong đó có căn cứ pháp luật. Tuy nhiên, việc hoạch định Cơ chế chính sách có thể bị cản trở khi pháp luật chứa đựng trong bản thân nó những yếu tố không bền vững, thiếu tính khả thi và thường xuyên thay đổi.
Thứ hai, hoạch định Cơ chế chính sách mới cũng thách thức sự nhất quán, không mâu thuẫn của hệ thống pháp luật quốc gia, nhất là khi hệ thống Cơ chế chính sách thiếu nhất quán, mâu thuẫn, hạn chế lẫn nhau giữa những Cơ chế chính sách chung của quốc gia hoặc giữa những Cơ chế chính sách của quốc gia với những Cơ chế chính sách cụ thể của từng địa phương… Ví dụ: Cơ chế chính sách nhập khẩu xe gắn máy của cơ quan nhà nước ở trung ương không phù hợp với Cơ chế chính sách điều tiết, quản lý cơ sở hạ tầng giao thông của những địa phương nên buộc nhiều địa phương, nhất là những thành phố lớn, điển hình là Hà Nội phải thực thi biện pháp dừng đăng ký xe máy mới… Khi đó, nếu tiếp tục hoạch định Cơ chế chính sách mới và cụ thể hoá nó thành pháp luật sẽ khó có thể thực hiện được trong môi trường pháp luật này.

Thứ ba, nếu pháp luật tốt thì mục tiêu Cơ chế chính sách có thể được đề cao hơn so với hệ thống biện pháp, hoặc chỉ cần hoạch định những biện pháp mềm dẻo nhưng Cơ chế chính sách vẫn có tính khả thi và hiệu quả cao.

Việc tìm hiểu về Cơ chế chính sách sẽ giúp ích cho bạn đọc nắm thêm kiến thức về vấn đề này, đồng thời những vấn đề khác xoay quanh nó cũng đã được chúng tôi trình bày như trên.

Trên đây là toàn bộ nội dung giới thiệu của ACC về Cơ chế chính sách là gì? (cập nhật 2022) gửi đến quý bạn đọc đọc để tham khảo. Trong quá trình tìm hiểu nếu như quý bạn đọc đọc còn thắc mắc cần giải đáp, quý bạn đọc đọc vui lòng truy cập trang web: https: accgroup.vn để được trao đổi, hướng dẫn cụ thể.

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo