Chủ thể của quan hệ pháp luật là gì? Chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự được quy định như thế nào? Năng lực pháp luật và năng lực hành vi của các chủ thể là gì? Bài viết sau đây sẽ phân tích làm rõ vấn đề chủ thể quan hệ pháp luật dân sự theo quy định pháp luật.
1. Khái niệm chủ thể quan hệ pháp luật dân sự 2015
Chủ thể là một cá nhân hoặc tổ chức tồn tại hữu hình và tham gia vào một quan hệ pháp luật, quan hệ xã hội để phối hợp thực hiện một giao dịch, một quan hệ nào đó.
Điều 1 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định phạm vi điều chỉnh của Bộ luật dân sự là quy định về địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý về cách ứng xử của cá nhân, pháp nhân; quyền, nghĩa vụ về nhân thân và tài sản của cá nhân, pháp nhân trong các quan hệ được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản và tự chịu trách nhiệm.
Như vậy Bộ luật dân sự đã xác định hai loại chủ thể quan hệ dân sự là: cá nhân, pháp nhân. Bên cạnh đó, dựa trên mục tiêu kinh tế khi hoạt động, có tìm kiếm lợi nhuận hay không, Bộ luật dân sự chia pháp nhân thành hai loại là pháp nhân thương mại và pháp nhân phi thương mại.
Ngoài ra, Bộ luật dân sự còn xác định hộ gia đình và tổ hợp tác và tổ chức khác không có tư cách pháp nhân tham gia quan hệ dân sự. Từ Điều 101 đến Điều 104 Bộ luật dân sự 2015 đã có những sửa đổi, bổ sung quan trọng, theo hướng minh định rõ trách nhiệm của các bên, phương thức tham gia giao dịch dân sự, theo đó “các thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân là chủ thể tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự”.
2. Các loại chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự
2.1. Cá nhân
Cá nhân là chủ thể chủ yếu và thường xuyên tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự bao gồm: công dân Việt Nam, người nước ngoài, người không có quốc tịch sống ở Việt Nam.
Để tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự cá nhân phải có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự:
- Năng lực pháp luật dân sự theo quy định tại Điều 16 Bộ luật dân sự năm 2015 là khả năng của cá nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự. Theo đó, mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân sự như nhau. Và năng lực pháp luật dân sự của cá nhân bắt đầu có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết. Năng lực pháp luật dân sự bao gồm các quyền như: Quyền nhân thân không gắn với tài sản và quyền nhân thân gắn với tài sản; Quyền sở hữu, quyền thừa kế và quyền khác đối với tài sản; Quyền tham gia quan hệ dân sự và có nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ đó.
- Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự (theo quy định tại Điều 19 Bộ luật dân sự năm 2015). Năng lực hành vi dân sự của cá nhân chỉ có được khi cá nhân đạt được độ tuổi nhất định và các yêu cầu về sức khỏe như sau:
- Năng lực hành vi dân sự đầy đủ: Theo quy định tại Điều 20 người thành niên (từ đủ 18 tuổi trở lên) có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp người bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi (quy định tại các Điều 22), người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi do tình trạng thể chất hoặc tinh thần (Điều 23) và người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình quy định tại Điều 24 của Bộ luật này;
- – Năng lực hành vi một phần: Điều 21 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định năng lực hành vi dân sự của người chưa thành niên từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi:
-
- Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi do người đại diện theo pháp luật của người đó xác lập, thực hiện.
- Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi.
- Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định của luật phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý.
2.2. Pháp nhân
Bộ luật dân sự 2015 quy định một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ 4 điều kiện sau:
– Thứ nhất, là được thành lập hợp pháp: thành lập theo đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định;
– Thứ hai, là có cơ cấu tổ chức chặt chẽ;
– Thứ ba, là có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó: pháp nhân phải có tài sản riêng không phụ thuộc và bị chi phối bởi bất kì chủ thể tham gia quan hệ pháp luật nào khác, trên cơ sở tài sản riêng đó pháp nhân phải chịu trách nhiệm, thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình
– Thứ tư, là nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập: vì tham gia vào quan hệ pháp luật một cách độc lập nên pháp nhân sẽ được hưởng các quyền và gánh vác các nghĩa vụ dân sự phù hợp với pháp nhân nên pháp nhân phải nhân danh chính mình.
Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân là khả năng của pháp nhân có các quyền, nghĩa vụ dân sự và không bị hạn chế trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân phát sinh từ thời điểm được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập hoặc cho phép thành lập; nếu pháp nhân phải đăng ký hoạt động thì năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân phát sinh từ thời điểm ghi vào sổ đăng ký. Chấm dứt năng lực pháp luật dân sự kể từ thời điểm chấm dứt pháp nhân.
Trên đây là nội dung về Chủ thể quan hệ pháp luật dân sự theo quy định bộ luật dân sự ngoài khái niệm là cá nhân và pháp nhân nói chung, Bộ luật dân sự còn đề cập đến các khái niệm công dân, người nước ngoài, người không quốc tịch là những cá nhân cũng chịu sự điều chỉnh của Bộ luật dân sự, và những tổ chức khác như hộ gia đình, tổ hợp tác cũng chịu sự điều chỉnh của Bộ luật này.
Công ty luật ACC sẵn sàng hỗ trợ mọi vấn đề pháp lý cho bạn.
Nội dung bài viết:
Bình luận