1. Chủ nghĩa quân phiệt là gì?
Chắc hẳn chúng ta đã nghe nhiều đến thuật ngữ quân phiệt, đó là việc các tướng lĩnh có khả năng kiểm soát quân sự, kinh tế và kiểm soát chính trị đối với một khu vực địa phương trong một quốc gia có chủ quyền thông qua việc có thể huy động các đội quân trung thành, định nghĩa quân phiệt này rất rõ ràng trong từ điển .
Những đội quân này thường được gọi là dân quân, trung thành với nhà lãnh đạo quân phiệt hơn là chính quyền trung ương và chính sách nhà nước.
Phần lớn chủ nghĩa quân phiệt được nhìn thấy trong hầu hết lịch sử và hình thức này tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau trong cấu trúc chính trị, kinh tế và xã hội của một quốc gia hoặc vùng lãnh thổ vô chính phủ.
Thuật ngữ quân phiệt được nhắc lần đầu tiên và xuất hiện lần đầu vào năm 1856, được triết gia và nhà thơ người Mỹ có tên là Ralph Waldo Emerson sử dụng trong một bài xã luận chỉ trích thậm tệ chế độ quý tộc ở nước Anh: “Hải tặc và chiến tranh đem đến nơi để phục vụ thương mại, chính trị và thư từ, từ quân phiệt (war-lord) cho đến luật phiệt, các đặc quyền đặc lợi được duy trì, trong khi các phương pháp để có được nó bị thay đổi.
Tóm lại, Quân phiệt là tình trạng quân nhân dựa vào lực lượng quân đội cậy thế lực chiếm quyền binh trong nước đàn áp dân thường.
Bên cạnh đó thì thuật ngữ cchir quân phiệt hay còn tên gọi khác là chủ nghĩa quân phiệt, là trào lưu tư tưởng chính trị phản động, chủ trương tăng cường sức mạnh quân sự và đẩy mạnh việc chuẩn bị về quân sự, do giới cầm quyền các nước đế quốc chủ nghĩa thi hành nhằm mục đích gây chiến tranh xâm lược, đàn áp các phong trào giải phóng dân tộc hay đàn áp các cuộc đấu tranh giai cấp của người lao động trong nước.
Với chủ nghĩa quân phiệt này thì nó có rất nhiều đặc điểm trong đó nổi bật vốn có của chủ nghĩa quân phiệt thường là chạy đua vũ trang, tăng nhanh ngân sách quân sự hay thành lập các khối quân sự – chính trị xâm lược, tăng cường ảnh hưởng của tổ hợp quân sự – công nghiệp đối với nền kinh tế và đường lối chính trị của Nhà nước, đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền có tính chất sô-vanh.
Như chúng ta đã biết thì chủ nghĩa này tồn tại được xác định dựa trên cơ sở tư tưởng của chủ nghĩa quân phiệt hiện đại chính là các chính sách chống cộng. Việc quân sự hóa nền kinh tế ở các nước tư bản chủ nghĩa dẫn đến các khoản chi trả cho các nhu cầu xã hội giảm mạnh, tăng thuế, lạm phát và đời sống vật chất của người lao động bị giảm sút.
Do đó, khi chủ nghĩa quân phiệt hoành hành ở một quốc gia, các xung đột kinh tế, xã hội và chính trị trở nên gay gắt hơn.
2. Chủ nghĩa quân phiệt tiếng Anh là gì?
Chủ nghĩa quân phiệt trong tiếng Anh là "warlord".
3. Chủ nghĩa đế quốc phong kiến và quân phiệt:
Trước đây, nói đến chủ nghĩa quân phiệt, người ta thường nói, chủ nghĩa quân phiệt được hiểu là một trào lưu tư tưởng chính trị phản động, chủ trương xây dựng sức mạnh quân sự, đề cao tính sẵn sàng chiến đấu của quân đội, do tầng lớp cầm quyền lãnh đạo. tiến hành chiến tranh xâm lược, đàn áp phong trào giải phóng dân tộc, đàn áp đấu tranh giai cấp của công nhân trong nước.
Với một đế chế phong kiến, họ sử dụng chủ nghĩa quân phiệt như ý tưởng về chính phủ mà nhà nước nên duy trì khả năng quân sự mạnh mẽ và sử dụng nó để mở rộng lợi ích hoặc giá trị quốc gia.
Chủ nghĩa quân phiệt cũng nói lên hệ tư tưởng nhà nước tôn vinh quân đội và lý tưởng của một tầng lớp quân nhân chuyên nghiệp và "ưu thế của lực lượng vũ trang trong chính sách của chính phủ hoặc nhà nước".
Về chủ nghĩa quân phiệt, có thể hiểu đó là một chế độ điển hình xuất hiện ở các quốc gia như thành phố Sparta của Hy Lạp, Đế quốc La Mã, Đế quốc Phổ, Đế quốc Anh, Đế quốc Nhật Bản, Đế quốc Mông Cổ, Đức Quốc xã và Chủ nghĩa đế quốc Hoa Kỳ. Kết quả là, với chế độ quân phiệt này sau Thế chiến II, chủ nghĩa quân phiệt đã xuất hiện ở nhiều quốc gia sau thời kỳ thuộc địa ở châu Á (Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, Myanmar và Campuchia của Pol Pot) và châu Phi (như Liberia, Nigeria và Uganda).
Một số nước phong kiến có tư tưởng quân phiệt, sử dụng vũ khí quá mức, vai trò của quân đội ngày càng tăng trong đối nội và đối ngoại, hoặc sử dụng bạo lực làm vũ khí cho chính trị. . Họ thường tạo ra một nhà lãnh đạo uy quyền, mạnh mẽ và quyết liệt.
Thông thường, giữa các quốc gia theo chủ nghĩa quân phiệt này, họ thường chú trọng đến các thông lệ và địa vị quân sự như phân chia cấp bậc, huân chương, danh hiệu và anh hùng.
4. Đặc điểm của chủ nghĩa quân phiệt:
Dưới đây là một số đặc điểm nổi bật của chủ nghĩa quân phiệt:
– Mặc đồng phục, chấp hành và phân biệt rõ ràng cấp bậc
– Huân chương, huyền thoại, suy tôn anh hùng
- Nhiệt tình với quyền lực và ưu thế
Tôn vinh bạo lực, chiến tranh và vũ khí
Thể hiện sức mạnh và sự bất khuất của bạn
Một đặc điểm khác của chủ nghĩa quân phiệt là trong các xã hội được quân sự hóa mạnh mẽ và tất nhiên sẽ có chế độ độc tài, các thành viên thường phải từ bỏ các giá trị và đạo đức cá nhân của họ cho một chính phủ quân sự.
Không chỉ vậy, khi ở trong một xã hội quân phiệt và ý thức hệ này bị đàn áp, những con người dày dạn kinh nghiệm phải từ bỏ cá tính riêng của mình để có những đặc điểm chung phù hợp với xã hội đó. Người lãnh đạo được hình dung. Mọi người chấp nhận chế độ ăn kiêng này mà không cần kiểm tra.
Cuối cùng là ảnh hưởng của việc huấn luyện quân sự, mục đích là huấn luyện binh lính tuân theo mệnh lệnh, không ngần ngại giết hại người khác, tạo nên một chế độ quân phiệt tàn ác. Những người dưới ảnh hưởng của nhóm phải từ bỏ tính cá nhân của họ. Những hệ thống như vậy được hỗ trợ bởi sự kiểm soát, cảm giác tội lỗi, sợ bị trừng phạt. Mặt khác, các phần thưởng như tăng lương, thăng chức và gương mẫu sẽ thu hút mọi người noi theo.
5. Quá trình quân sự hóa Nhật Bản diễn ra như thế nào?
Như vậy, từ những nội dung nêu trên có thể thấy, để khắc phục hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế, các nhà lãnh đạo Nhật Bản đã chủ trương quân sự hóa bộ máy nhà nước, gây chiến tranh xâm lược và bành trướng ra bên ngoài.
- Đặc điểm:
Quá trình quân sự hóa chuyển qua quân sự hóa bộ máy nhà nước và chiến tranh xâm lược thuộc địa.
Do có sẵn chế độ chuyên chế đế quốc nên đã diễn ra quá trình quân sự hóa bộ máy nhà nước thông qua việc chuyển từ chế độ dân chủ tư sản đại biểu sang chế độ độc tài phát xít. Quá trình này tiếp tục trong suốt những năm 1930.
Việc quân sự hóa nhà nước đi kèm với việc thúc đẩy chiến tranh xâm lược. Năm 1931, Nhật Bản xâm lược đông bắc Trung Quốc, tạo bàn đạp để tấn công châu Á.
Nhật Bản đã thực sự trở thành lò lửa chiến tranh của châu Á và thế giới.
Có thể nói, nói đến chủ nghĩa quân phiệt, người ta thường nhắc đến Nhật Bản, sở dĩ như vậy, bởi trong suốt thời gian trị vì của mình, Thiên hoàng Minh Trị luôn kiên trì chính sách đồng thời vừa thu (bao gồm thu 4 bể) vừa hỗ trợ hoành phi (bao gồm cả thu nhập thế giới). , tức là chính sách xâm lược, bành trướng lãnh thổ ra bên ngoài. Ông đã từng đích thân tham gia các cuộc tập trận quân sự và thường triệu tập các binh sĩ để ca ngợi và khuyến khích "sự hào hùng" của Nhật Bản. Không chỉ vậy, để xây dựng xã hội và chế độ quân phiệt Đại Hiến pháp của Đế quốc Nhật Bản năm 1889, Nhật Bản là quốc gia theo chế độ quân chủ lập hiến, Thiên hoàng và tập đoàn quân phiệt nắm giữ mọi quyền lực. Theo quy định của Hiến pháp, Nhật hoàng có quyền "thiêng liêng và bất khả xâm phạm", là nguyên thủ quốc gia, nắm toàn bộ quyền thống trị. Tuy nhiên, Hoàng đế buộc phải dựa vào các đạo luật được ghi trong Hiến pháp để thực thi quyền lực to lớn của mình, và khi Hoàng đế dùng danh nghĩa của mình để ban hành các sắc lệnh về pháp luật và quốc sự thì "phải được sự chấp thuận của nhà nước". do các đại sứ ký". Như vậy, Hiến pháp cũng đã hạn chế ảnh hưởng của Thiên hoàng trong chính phủ, giúp Nhật Bản chuyển dần từ quân chủ chuyên chế sang quân chủ lập hiến và nền chính trị đảng phái của giai cấp tư sản. Ci Trên đây là thông tin chúng tôi tư vấn về nội dung “Chủ nghĩa quân phiệt là gì? Chủ nghĩa đế quốc, chế độ phong kiến và chủ nghĩa quân phiệt” và các thông tin pháp lý khác dựa trên các quy định của pháp luật hiện hành. Hi vọng những thông tin trên sẽ hữu ích với bạn đọc.
Nội dung bài viết:
Bình luận