Chỉ số tham nhũng trong tiếng Anh là gì? - Công ty Luật ACC

“Lãng phí là cái tôi đánh giá nghiêm trọng hơn là thất thoát. Thất thoát ở đây nói thẳng là tham nhũng”. Quan điểm nêu trên được một vị thứ trưởng bày tỏ khi trao đổi với đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội liên quan đến việc thực hiện chính sách, pháp luật về giảm nghèo giai đoạn 2005 – 2012, trong bối cảnh khá nhiều ý kiến quan ngại về tình trạng lãng phí khi sử dụng nguồn lực quốc gia vốn đã eo hẹp. Mời bạn tham khảo bài viết: Tham nhũng và lãng phí có giống nhau không? - Luật ACC.
anh-1-ban-chi-dao-1000x673
Tham nhũng và lãng phí có giống nhau không? - Luật ACC

1. Tham nhũng là gì?

Theo khoản 1 Điều 3 Luật Phòng, chống tham nhũng 2018, tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi.
Trong đó:
Người có chức vụ, quyền hạn là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do tuyển dụng, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó, bao gồm:
+ Cán bộ, công chức, viên chức;
+ Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức quốc phòng trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật, công nhân công an trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân;
+ Người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp;
+ Người giữ chức danh, chức vụ quản lý trong doanh nghiệp, tổ chức;
+ Những người khác được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ và có quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó.
Vụ lợi là việc người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn nhằm đạt được lợi ích vật chất hoặc lợi ích phi vật chất không chính đáng.
Chỉ số tham nhũng trong tiếng Anh là gì? Từ năm 1995, Tổ chức Minh bạch Quốc tế (Transparency International - TI) đã công bố một chỉ số nhận thức tham nhũng (Corruption Perceptions Index - CPI) hàng năm xếp thứ tự các quốc gia trên thế giới theo "mức độ tham nhũng mà được nhận thức tồn tại trong các giới công chức và chính trị gia".

2. Những điểm mới của Đại hội XIII về kiểm soát quyền lực

Kiểm soát quyền lực được Đảng ghi nhận từ rất sớm. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định: “Quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Trên nền tảng Cương lĩnh, Hiến pháp 2013 và các văn bản pháp luật khác đã thể chế hóa việc kiểm soát quyền lực nhà nước, đến nay, cơ chế này ngày càng được hoàn thiện. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nhận định: “Cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ngày càng rõ hơn và có nhiều chuyển biến tích cực”.

Có thể chỉ ra một số điểm mới về công tác kiểm soát quyền lực theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng như sau:

Thứ nhất, về hoạt động kiểm soát quyền lực của một số chủ thể

Đại hội XIII nhấn mạnh, hoạt động kiểm soát quyền lực đến từ Đảng Cộng sản Việt Nam. Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tổng kết công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII đánh giá: “Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã chỉ đạo từng bước hoàn thiện thể chế về công tác cán bộ; xây dựng, bổ sung, sửa đổi và ban hành mới nhiều quy định, quy chế về đánh giá, quy hoạch, luân chuyển, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử và kiểm soát quyền lực, chống chạy chức, chạy quyền; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền đi đôi với tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực”. Một điểm mới quan trọng được chỉ ra là hệ quan điểm chỉ đạo của Đảng, Văn kiện Đại hội XIII nêu rõ “kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Trong đó, nguyên tắc cơ bản và quan trọng nhất trong tổ chức và hoạt động của Đảng là tập trung dân chủ, liên quan đến kiểm soát quyền lực, tập trung dân chủ đảm bảo cho Đảng đưa ra các quyết định về quyền lực một cách đúng đắn; phát huy được trí tuệ của tập thể trong phân cấp, phân quyền; bảo đảm tính kỷ luật tự giác của mỗi tổ chức đảng và đảng viên trong thực thi quyền lực. Nhìn chung, hệ quan điểm chỉ đạo khẳng định cơ chế kiểm soát quyền lực của Đảng, đảm bảo vai trò lãnh đạo trực tiếp, toàn diện về mọi mặt của Đảng.

Nhân dân là chủ thể kiểm soát quyền lực quan trọng. Việc Nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước là sự thể hiện cụ thể của chủ trương “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” được nêu ra từ Đại hội V của Đảng. Tại Đại hội XIII, nhằm phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân, Đại hội đề ra phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Điểm mới được Đại hội đề cập đến nằm ở “dân giám sát” và “dân thụ hưởng”; trong đó, “dân giám sát” thể hiện việc kiểm soát quyền lực của Nhân dân thông qua hình thức giám sát. Như vậy, có thể thấy Đại hội XIII đã bổ sung thêm cơ sở chính trị quan trọng về kiểm soát quyền lực của Nhân dân đối với các cơ quan công quyền. Cơ sở này rất quan trọng để thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của Nhân dân nhằm “thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở”(5) và thể chế hóa thành các văn bản pháp luật cụ thể sau này.

Đối với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, hoạt động kiểm soát quyền lực đối với các cơ quan thực thi quyền lực chủ yếu qua hai phương thức giám sát và phản biện. Đại hội XIII đặt ra yêu cầu “đổi mới tổ chức, bộ máy, nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội theo phương châm hướng mạnh về cơ sở, địa bàn dân cư, thực hiện tốt vai trò giám sát, phản biện xã hội”. Trong đó, Văn kiện Đại hội nhấn mạnh phải gắn các vai trò này với công tác kiểm tra, giám sát của Đảng: “Phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và Nhân dân trong công tác kiểm tra, giám sát của Đảng” và yêu cầu xây dựng cơ chế phối hợp giữa chính quyền, các cơ quan, tổ chức với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội các cấp.

Thứ hai, về phương thức, cơ chế tiến hành kiểm soát quyền lực

Điểm mới của Đại hội XIII về kiểm soát quyền lực nhấn mạnh phương thức kiểm soát quyền lực bằng hình thức giám sát của Nhân dân. Để bổ sung “dân giám sát, dân thụ hưởng” vào Văn kiện Đại hội XIII của Đảng là một quá trình phát triển tư duy lý luận với hơn 35 năm đổi mới đất nước; chính thực tiễn cuộc sống cũng như đòi hỏi chính đáng của Nhân dân là cơ sở để bổ sung yếu tố này.

Một điểm mới về nhận thức của Đảng ta được nêu ra tại Đại hội XIII là phải tăng cường và bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ giữa các thiết chế trong kiểm soát quyền lực, Đại hội chỉ rõ phải “xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước”. Từ đó Đại hội đặt ra yêu cầu: “Tăng cường phối hợp giữa giám sát, kiểm tra của Đảng với giám sát, thanh tra của Nhà nước và giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội để tăng cường sức mạnh tổng hợp và nâng cao hiệu lực, hiệu quả giám sát, kiểm tra, tránh chồng chéo, trùng lặp, lãng phí nguồn lực, không hiệu quả”.

Đại hội XIII nhấn mạnh tính nòng cốt của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Văn kiện chỉ rõ: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt để Nhân dân làm chủ”. Mặt trận Tổ quốc là một trong những thành tố quan trọng trong mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Trên cơ sở đó, Đại hội XIII nêu cao vai trò kiểm soát quyền lực thông qua giám sát và phản biện của Mặt trận trong việc thực hiện thắng lợi phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 05 năm 2021-2025. Đồng thời, một điểm mới quan trọng mà Đại hội nhấn mạnh về phương thức hoạt động của Mặt trận đó là phải “hướng mạnh về cơ sở, địa bàn dân cư” bởi việc đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội được Đại hội XIII đánh giá là có mặt chưa theo kịp yêu cầu của tình hình mới và chưa thật sâu sát các tầng lớp Nhân dân.

3.  Quan điểm Đại hội XIII về kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng

Phòng, chống tham nhũng có vai trò vô cùng quan trọng đối với công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay. Trong phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp phát triển kinh tế xã hội 05 năm (2021-2025), điểm mới mà Đại hội XIII nhấn mạnh đó là nhiều chủ trương và giải pháp căn cơ quyết liệt về phòng, chống tham nhũng, đồng thời nhấn mạnh yêu cầu triển khai đồng bộ có hiệu quả quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng. Nâng cao hiệu quả thu hồi tài sản tham nhũng, bảo đảm đúng pháp luật và thực hiện quyết liệt nghiêm minh, có hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Trong đó, Đảng thể hiện sự kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng với nguyên tắc tích cực phòng ngừa đi liền với chủ động tấn công.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII cũng đề ra chủ trương về phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn hệ thống chính trị, thực hiện giám sát các cơ quan thực thi quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng, trong đó, chú trọng phát huy tính tích cực, chủ động và phối hợp của Mặt trận Tổ quốc, tổ chức chính trị xã hội, Nhân dân, doanh nghiệp, báo chí trong phát hiện, đấu tranh phòng, chống tham nhũng.

Về phòng ngừa tham nhũng, Đại hội đặt yêu cầu khẩn trương xây dựng cơ chế phòng ngừa, cơ chế răn đe để kiểm soát tham nhũng. Đồng thời, nhấn mạnh  cơ chế khuyến khích và bảo vệ người tố cáo hành vi tham nhũng, lãng phí và nâng cao việc kiểm soát quyền lực để phòng, chống tham nhũng: “Nâng cao hiệu quả công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra, làm tốt chức năng hỗ trợ, thúc đẩy phát triển. Không hình sự hoá các mối quan hệ kinh tế, hành chính, dân sự”.

4. Tham nhũng và lãng phí có giống nhau không? - Luật ACC

“Lãng phí là cái tôi đánh giá nghiêm trọng hơn là thất thoát. Thất thoát ở đây nói thẳng là tham nhũng”.

Quan điểm nêu trên được một vị thứ trưởng bày tỏ khi trao đổi với đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội liên quan đến việc thực hiện chính sách, pháp luật về giảm nghèo giai đoạn 2005 – 2012, trong bối cảnh khá nhiều ý kiến quan ngại về tình trạng lãng phí khi sử dụng nguồn lực quốc gia vốn đã eo hẹp.

Nêu nhận xét cá nhân là hiệu quả sử dụng các nguồn lực cho giảm nghèo thời gian qua chỉ ở mức trung bình, vị quan chức này cũng hơn một lần đề cập đến những biểu hiện của lãng phí khi đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng còn dàn trải. Hoặc có địa phương miền núi rất nghèo nhưng đường nội thị to như đại lộ Thăng Long và trụ sở làm việc rất chi là hoành tráng.

Song, ông Thứ trưởng tỏ ý băn khoăn khi việc giám sát mới tập trung nhiều vào thất thoát. Mà theo ông thì lãng phí còn nghiêm trọng hơn là thất thoát hay gọi thẳng là tham nhũng. Bởi vì “tham nhũng thì tài sản không mất đi mà nó chỉ từ của nhà nước lòng vòng xuống cá nhân, xuống đối tượng tham nhũng. Còn lãng phí là cái mất đi, không vào ai cả, cũng không vào người dân”.

Lãng phí là công trình đầu tư không đưa vào sử dụng hoặc sử dụng trong thời gian rất ngắn, chính xác là mất đi, ông thứ trưởng giải thích thêm.

Tuy nhiên, một số vị đại biểu Quốc hội - những người đang được trao trọng trách “giữ tay hòm chìa khóa” cho nhân dân - khi được tham vấn đều có quan điểm khác với ông Thứ trưởng.

Không có mặt trong đoàn giám sát, nhưng đại biểu Trần Văn, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội cũng đã “bắt bệnh” những cái được gọi là lãng phí trong xóa đói giảm nghèo nói riêng và đầu tư công nói chung.

Đó chính là việc ban hành quá nhiều chính sách nhưng không có nguồn lực tài chính đảm bảo dẫn đến đầu tư dàn trải, kém hiệu quả. Hay như chủ trương đầu tư sai, đầu tư quá nhu cầu, quá khả năng chịu đựng của nền kinh tế cũng dẫn đến không bố trí vốn kịp thời, kéo dài thời gian thi công, làm tăng tổng mức đầu tư do trượt giá, hư hỏng thất thoát khối lượng xây lắp đã thực hiện….

Hầu như tất cả các công trình hạ tầng giao thông, thủy lợi, y tế, giáo dục, điện nước... đều trong tình trạng bố trí vốn không theo tiến độ dự án dẫn đến tăng tổng mức đầu tư, giảm hiệu quả sử dụng vốn. Trong khi các chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững cũng bao gồm cả những nhiệm vụ có thể lồng ghép với nhiệm vụ của các chương trình lao động và việc làm, vệ sinh nước sạch môi trường nông thôn, kế hoạch hóa gia đình và y tế nông thôn, xây dựng nông thôn mới... để tập trung nguồn lực tài chính, tiết kiệm chi phí quản lý, truyền thông, nâng cao năng lực, ông Văn nhận xét.

Điều được ông Văn lưu ý là trong tất cả những biểu hiện trên đều có thể chứa đựng hành vi tham nhũng một cách tinh vi. Bởi vậy, vị đại biểu giữ trọng trách ở cơ quan chịu trách nhiệm thẩm tra các vấn đề liên quan đến túi tiền quốc gia cho rằng: “Lãng phí và tham nhũng đều nghiêm trọng, không thể nói cái nào ít nghiêm trọng hơn cái nào. Cả hai đều nghiêm trọng như nhau và có khi còn là hệ quả của nhau”.

Cũng là thành viên Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội, Ủy viên thường trực Lê Thanh Vân cho rằng “nói lãng phí nghiêm trọng hơn tham nhũng" là không chính xác.

Ông Vân phân tích "tham nhũng" và "lãng phí" giống nhau ở chỗ đều là tệ nạn từ những hành vi làm thất thoát tài sản của nhà nước, của nhân dân.

Điểm khác nhau ở chỗ: tham nhũng là hành vi lợi dụng quyền hành để gây phiền hà, khó khăn và lấy đi tài sản của nhân dân, hoặc là hành vi lợi dụng quyền hành để lấy cắp của công. Tham nhũng là hành vi bắt nguồn từ lỗi cố ý. Còn lãng phí là việc sử dụng nguồn lực vào những hoạt động vô ích, gây thất thoát, hư hại đến tài sản. Lãng phí bắt nguồn từ năng lực yếu kém, hay thái độ thờ ơ, thiếu tinh thần trách nhiệm.

Tham nhũng và lãng phí đều là những hành vi làm chậm sự phát triển kinh tế - xã hội, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với hoạt động quản lý của nhà nước và trực tiếp tác động tiêu cực đến sự ổn định chính trị, kinh tế - xã hội của đất nước, đều đáng bị lên án và bị trừng trị, ông Vân nhấn mạnh.

Lòng tin, đó cũng chính là điều được Phó Chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội, đại biểu Đỗ Mạnh Hùng, Trưởng đoàn giám sát trực tiếp làm việc với vị thứ trưởng nói trên nhấn mạnh trong bài viết đầu năm 2013 trên VnEconomy rằng “không được phép phung phí thêm nữa”.

Mà, sự phung phí niềm tin của nhân dân, cũng theo nhìn nhận của đại biểu Quốc hội, có nguyên nhân quan trọng từ việc chống tham nhũng “như đánh trận giả”.

Trở lại quan điểm cá nhân của vị thứ trưởng. Lãng phí mà ông nói, đó là tiền, tài sản, tóm lại là vật chất. Tham nhũng mà ông đề cập tất nhiên cũng là tài sản, tiền bạc. Cả hai đều đã và đang làm xói mòn niềm tin của nhân dân.

Nhưng, theo nhận định của Thanh tra Chính phủ thì “tham nhũng là một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của chế độ". Còn theo cảm nhận của nhiều đại biểu và cả cử tri, thì tham nhũng còn là sự lãng phí niềm tin một cách vô tội vạ. Sự lãng phí đó, không tiền bạc nào sánh được.

Trên đây là một số thông tin về Tham nhũng và lãng phí có giống nhau không? - Luật ACC, mời bạn đọc thêm tham khảo và nếu có thêm những thắc mắc về bài viết này hay những vấn đề pháp lý khác về dịch vụ luật sư, tư vấn nhà đất, thành lập doanh nghiệp… hãy liên hệ với ACC theo thông tin bên dưới để nhận được sự hỗ trợ nhanh chóng và hiệu quả từ đội ngũ luật sư, chuyên viên pháp lý có nhiều năm kinh nghiệm từ chúng tôi. ACC đồng hành pháp lý cùng bạn.

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    Họ và tên không được để trống

    Số điện thoại không được để trống

    Số điện thoại không đúng định dạng

    Vấn đề cần tư vấn không được để trống

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo