Chế độ công hữu bạn đã nghe qua thuật ngữ này chưa? Chế độ công hữu là gì những vấn đề liên quan đến chế độ công hữu là gì? ACC mời bạn cùng tìm hiểu thông qua bài viết Chế độ công hữu là gì? (Cập nhật 2022)
Chế độ công hữu là gì? (Cập nhật 2022)
1. Chế độ công hữu là gì?
Chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa là chế độ sở hữu gồm tổng thể các quy phạm pháp luật quy định về sở hữu xã hội chủ nghĩa về các tư liệu sản xuất, tư liệu sinh hoạt, các phương tiện và sản phẩm khác. Chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất – cơ sở của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Việc xuất hiện chế độ công hữu bên cạnh những mặt tích cực cũng đã tạo ra nhiều điểm tiêu cực đến đời sống-xã hội lúc bấy giờ.
Chế độ công hữu tiếng Anh là Public regime
2. Vấn đề công hữu trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa
Theo tư duy mới, chế độ công hữu không phải là yếu tố “nhất thành bất biến” trong nền sản xuất ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cũng như ở thời kỳ chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng xong.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đều có đặc điểm chung là lấy chế độ công hữu làm nền tảng. Tất cả các văn kiện chính thức của Đảng và Nhà nước ta đều khẳng định như vậy.
Nhưng ở nước ta hiện nay, có một số người hoài nghi về vấn đề này. Có người cho rằng, nói như vậy là võ đoán, là chủ quan, áp đặt. Người khác thì cho rằng, tùy theo kết quả phát triển tự nhiên của nền kinh tế mà có sự sắp xếp vị trí của chế độ công hữu, không nên nói trước nó giữ vị trí như thế nào.
Đây là vấn đề hệ trọng, không thể tùy tiện giải quyết bằng ý muốn chủ quan. Cần thấy rằng, chế độ chính trị – xã hội quy định bản chất của chế độ kinh tế. Chế độ chính trị tư bản chủ nghĩa có cơ sở kinh tế là chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa lấy chế độ công hữu làm nền tảng. Tính quy định đó được thực hiện thông qua hoạt động có ý thức của con người, trước hết là của giai cấp thống trị.
Chế độ công hữu ở nước ta không phải là sự hư cấu, mà là một thực thể kinh tế, được hình thành bằng việc quốc hữu hóa các cơ sở kinh tế của chế độ cũ và từng bước xây dựng nên các cơ sở kinh tế mới. Nó phát triển dần từ nhỏ đến lớn, từ thấp đến cao, ngày càng vững mạnh và hoàn thiện.
Hiện nay, chúng ta chưa thể nói gì nhiều và cụ thể về chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng xong trên các mặt, trong đó có vấn đề sở hữu. Bởi vì, theo tư duy mới, về lý thuyết cũng như thực tiễn, trên thế giới chưa từng xuất hiện chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng. Nếu có ai đưa ra luận giải về chủ đề này, thiết nghĩ, thường nặng về phương pháp luận hoặc ý kiến chủ quan. Hơn nữa, giai đoạn này còn cách xa chúng ta, trong khi thực tiễn và lý luận còn thay đổi nhiều. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội kéo dài bao lâu, năm bảy chục năm hay lâu hơn nữa, chưa có ai tiên đoán được, nhưng chắc chắn là còn lâu dài.
Trên những lý do trên, chúng tôi có một số suy nghĩ chủ quan sau đây.
Thứ nhất, dưới chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng xong sẽ không có một chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa thuần khiết, điều mà trước đây mấy chục năm nhiều người tin tưởng là có. Nói “không” với sở hữu xã hội chủ nghĩa thuần khiết có thể gây “sốc” đối với một số người, nhưng nó là vấn đề có tính quy luật.
Trong lịch sử loài người, chưa ở đâu và chưa bao giờ có một chế độ sở hữu thuần khiết. Tuy quan hệ sản xuất thống trị có sự thay đổi, nhưng các quan hệ sản xuất “trái mùa” (trong đó có quan hệ sở hữu), như C.Mác nói, vẫn tồn tại dai dẳng, xuyên suốt các hình thái kinh tế – xã hội. Những quan hệ sản xuất đó tuy nhỏ so với quan hệ sản xuất thống trị nhưng vẫn có vai trò nhất định trong nền kinh tế.
Thứ hai, xuất phát từ luận điểm cơ bản trên, có thể thấy, trong thời kỳ quá độ cũng như khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng xong, nền kinh tế vẫn là đa sở hữu, tuy vị trí, vai trò của từng loại sở hữu trong hai thời kỳ không hoàn toàn giống nhau. Thành phần công hữu tồn tại và phát triển trong chế độ đa sở hữu đó.
Sự khác nhau giữa thời kỳ quá độ và thời kỳ chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng xong về mặt quan hệ sản xuất không phải là ở chỗ, các loại hình phi công hữu có tồn tại hay không, mà ở sự lớn mạnh của kinh tế công hữu và mức độ chi phối về kinh tế của nó (trên thực tế chứ không phải trên lý thuyết) đối với các thành phần phi công hữu và toàn bộ nền kinh tế nói chung.
Thứ ba, cương lĩnh của Đảng năm 1991 có nêu một số đặc trưng của chủ nghĩa xã hội khi đã được xây dựng xong là: có lực lượng sản xuất hiện đại dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu.
Thứ tư, nền kinh tế xã hội chủ nghĩa khi đã xây dựng xong được đặc trưng bằng sự đa dạng các loại hình sở hữu hỗn hợp, trong đó quan trọng nhất là sở hữu tư bản nhà nước. Theo V.I. Lê-nin, tư bản nhà nước, về bản chất là 3/4 xã hội chủ nghĩa. Ở nước ta hiện nay, quá trình này mới phôi thai, chủ yếu là với tư bản nước ngoài. Thời gian tới, tư bản tư nhân trong nước, kể cả tư bản lớn, sẽ xuất hiện ngày càng nhiều. Để không rơi vào con đường tự phát và ngăn chặn phát triển tư bản chủ nghĩa thì đại bộ phận tư bản tư nhân phải được hướng vào con đường tư bản nhà nước bằng nhiều hình thức khác nhau.
Thứ năm, chúng ta thử hình dung sự tồn tại và phát triển của các loại hình sở hữu khi kết thúc thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. ở đây, điều mà chúng ta có thể làm được phần nào là nêu lên mặt định tính của các loại hình sở hữu, còn về mặt định lượng thì chưa có thể xác định cụ thể được.
3. Câu hỏi thường gặp
Nội dung bài viết:
Bình luận