Chế định bảo vệ quyền sở hữu trong luật dân sự [Chi tiết 2022]

Bảo vệ quyền sở hữu là quyền pháp luật quy định cho phép cá nhân có quyền tự bảo vệ hoặc ngăn chặn người khác xâm phạm quyền của mình. Là biện pháp tác động bằng pháp luật đối với hành vi xử sự của con người, ngăn ngừa những hành vi xâm hại đến chủ sở hữu khi người này hành xử quyền của mình.

kt268614-1
Chế định bảo vệ quyền sở hữu trong luật dân sự [Chi tiết 2022]

1. Quy định chung về quyền sở hữu

Tổng hợp các quy phạm pháp luật về vấn đề sở hữu tồn tại trong xã hội tại thời điểm lịch sử nhất định (theo nghĩa khách quan).

Các quy phạm pháp luật về vấn đề sở hữu bao gồm những nhóm quy phạm về: các hình thức sở hữu; căn cứ phát sinh, chấm dứt quyền sở hữu; nội dung quyền sở hữu; cách thức, biện pháp dịch chuyển quyền sở hữu ở các hình thức sở hữu khác nhau; bảo vệ quyền sở hữu.

Quyền của chủ thể đối với tài sản thuộc quyền sở hữu của mình (theo nghĩa chủ quan) bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật.

Quyền sở hữu là chế định pháp luật dân sự, là quan hệ pháp luật dân sự, trong đó các yếu tố cấu thành gồm chủ thể, khách thể, nội dung.

2. Khái niệm về quyền sở hữu.

Bộ luật cơ bản kế thừa các quy định về thực hiện quyền sở hữu trong BLDS 2015. Cụ thể theo quy định tại Điều 158:

“Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của luật.”

- Chiếm hữu là việc chủ thể nắm giữ, chi phối tài sản một cách trực tiếp hoặc gián tiếp như chủ thể có quyền đối với tài sản.

- Quyền sử dụng là quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản.

- Quyền định đoạt là quyền chuyển giao quyền sở hữu tài sản, từ bỏ quyền sở hữu, tiêu dùng hoặc tiêu hủy tài sản.

Về nguyên tắc xác lập quyền sở hữu được quy định tại điều 160 BLDS 2015 như sau:

“Điều 160. Nguyên tắc xác lập, thực hiện quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản

  1. Quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản được xác lập, thực hiện trong trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định.

Quyền khác đối với tài sản vẫn có hiệu lực trong trường hợp quyền sở hữu được chuyển giao, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.

  1. Chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình đối với tài sản nhưng không được trái với quy định của luật, gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
  2. Chủ thể có quyền khác đối với tài sản được thực hiện mọi hành vi trong phạm vi quyền được quy định tại Bộ luật này, luật khác có liên quan nhưng không được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu tài sản hoặc của người khác.”

3. Chế định về quyền sở hữu

Theo quy định tại Điều 158 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì: “Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của luật”.

Thứ nhất, về quyền chiếm hữu thì Điều 179 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “1. Chiếm hữu là việc chủ thể nắm giữ, chi phối tài sản một cách trực tiếp hoặc gián tiếp như chủ thể có quyền đối với tài sản; (2). Chiếm hữu bao gồm chiếm hữu của chủ sở hữu và chiếm hữu không phải là chủ sở hữu. Việc chiếm hữu của người không phải là chủ sở hữu không thể là căn cứ xác lập quyền sở hữu, trừ trường hợp quy định tại các điều 228, 229, 230, 231, 232, 233 và 236 của Bộ luật này”. 

Khác với quy định của Bộ luật dân sự năm 2005, ở đây thì Bộ luật Dân sự năm 2015 đã ghi nhận và tách quyền chiếm hữu thành một điều luật độc lập, thể hiện cách tiếp cận mới và đặc biệt tiến bộ của các nhà làm luật. Theo đó, chế định chiếm hữu được xem là một chế định độc lập so với chế định sở hữu. Việc chủ thể nắm giữ, chi phối tài sản một cách trực tiếp hoặc gián tiếp như chủ thể có quyền đối với tài sản là sự chiếm hữu tài sản thực tế kết hợp với ý chí của người chiếm hữu.

Bộ luật Dân sự năm 2015 đã đưa ra khái niệm chiếm hữu ngay tình rộng hơn so với Bộ luật Dân sự năm 2005.  Theo đó, chiếm hữu ngay tình là việc chiếm hữu mà người chiếm hữu có căn cứ để tin rằng mình có quyền đối với tài sản đang chiếm hữu, bao gồm hai loại: chiếm hữu có căn cứ pháp luật và chiếm hữu không có căn cứ pháp luật và chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình. Việc chiếm hữu có căn cứ pháp luật được ghi nhận tại Điều 165 bao gồm: Chủ sở hữu chiếm hữu tài sản; người được chủ sở hữu uỷ quyền quản lý tài sản; người được chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự phù hợp với quy định của pháp luật; người phát hiện và giữ tài sản vô chủ, tài sản không xác định được ai là chủ sở hữu, tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm phù hợp với điều kiện theo quy định của Bộ luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan; Người phát hiện và giữ gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước bị thất lạc phù hợp với điều kiện theo quy định của Bộ luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan; các trường hợp khác do pháp luật quy định. Việc chiếm hữu không phù hợp với những nội dung trên được coi là chiếm hữu không có căn cứ pháp luật”. Ở đây, so với Bộ luật Dân sự năm 2005, người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật ngay tình thì không biết và không thể biết việc chiếm hữu tài sản là không có căn cứ pháp luật (yếu tố khách quan) tức là không buộc chủ thể nhận thức được việc chiếm hữu của mình là không có căn cứ pháp luật, trong trường hợp này, dù không đòi hỏi điều kiện phải biết về tình trạng chiếm hữu của tài sản nhưng người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật ngay tình này có thể có sự nghi ngờ, chưa thực sự chắc chắn vào việc chiếm hữu của mình là hợp pháp hay không hợp pháp.

Đối lập với chiếm hữu ngay tình, thì chiếm hữu không ngay tình là trường hợp đòi hỏi người chiếm hữu phải nhận thức được mình không có quyền đối với tài sản, và việc chiếm hữu này không có căn cứ pháp luật. Biết và buộc phải biết mình không có quyền đối với tài sản đang chiếm hữu của người chiếm hữu là có căn cứ pháp lý để pháp luật buộc họ phải chấm dứt việc chiếm hữu thực tế bất hợp pháp đối với tài sản, hoàn trả lại tài sản cho chủ thể có quyền sở hữu đối với tài sản, đồng thời phải bồi thường thiệt hại (nếu có) do hành vi chiếm hữu bất hợp pháp của mình gây ra (Điều 579 và khoản 1 Điều 581 Bộ luật Dân sự năm 2015).

Đối với những trường hợp đòi hỏi người chiếm hữu biết hoặc phải biết việc chiếm hữu của mình là không ngay tình thì thường liên quan đến các loại tài sản có đăng ký quyền sở hữu như bất động sản, động sản đăng ký quyền sở hữu: ví dụ một người mua một chiếc xe máy từ một chủ thể khác không có giấy chứng nhận quyền sở hữu chiếc xe máy, trong khi đòi hỏi người mua phải yêu cầu chứng minh quyền được bán hợp pháp của người bán; đối với loại tài sản thuộc sở hữu chung và các đồng chủ sở hữu phải thể hiện ý chí chuyển giao quyền cho người đang chiếm hữu tài sản; liên quan đến việc chuyển giao quyền chiếm hữu của chủ thể không có quyền chuyển giao quyền chiếm hữu (người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người hạn chế năng lực hành vi dân sự), ví dụ: một người vì ham rẻ nên đã đồng ý mua một dàn loa giá trị 300 triệu với giá 50 triệu từ một em bé 12 tuổi.

Bên cạnh đó, đối với chiếm hữu liên tục được quy định tại Điều 185 Bộ luật Dân sự năm 2015 được hiểu là việc chiếm hữu về mặt thực tế và mặt pháp lý của một chủ sở hữu đối với tài sản. Chiếm hữu về mặt thực tế là việc chủ sở hữu, hoặc người có quyền chiếm hữu tự mình giữ tài sản. Khi chủ sở hữu trao quyền chiếm hữu tài sản cho một chủ thể khác thì chủ sở hữu chỉ có quyền chiếm hữu về mặt pháp lý đối với tài sản, còn chủ thể được chủ sở hữu trao quyền chiếm hữu chỉ có quyền chiếm hữu thực tế đối với tài sản. Đây là trường hợp sở hữu trao quyền chiếm hữu thực tế một cách tự nguyện. Ví dụ: Ông A vào bệnh viện khám bệnh, gửi xe của mình cho người trông xe tên B ở bãi giữ xe của bệnh viên, thì trường hợp này, ông A là người chiếm hữu về mặt pháp lý đối với tài sản là chiếc xe máy, còn ông B là người chiếm hữu về mặt thực tế đối với tài sản là chiếc xe máy đó.

Đồng thời, tính liên tục của chiếm hữu được ghi nhận bao gồm hai điều kiện: (1) Việc chiếm hữu diễn ra trong một khoảng thời gian nhất định; (2) Không có tranh chấp về quyền đối với tài sản hoặc có tranh chấp nhưng chưa được giải quyết bằng một bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác. Việc chiếm hữu của chủ thể không bị gián đoạn trong quá trình chiếm hữu, đồng thời không xảy ra các tranh chấp về quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng…đối với tài sản, hoặc nếu có loại tranh chấp này thì chưa được giải quyết tại Toà án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền bằng một bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật.

 Điều 190 Bộ luật Dân sự năm 2005 chỉ ghi nhận chiếm hữu liên tục trong một khoảng thời gian và không có tranh chấp về tài sản thì đến Bộ luật Dân sự năm 2015 bổ sung thêm trường hợp có tranh chấp nhưng chưa được giải quyết bằng một bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác. Như vậy theo tinh thần của điều luật này thì dù việc chiếm hữu được thực hiện trong một khoảng thời gian mà có tranh chấp hay không có tranh chấp về quyền đối với tài sản thì vẫn được coi là chiếm hữu liên tục.

Chiếm hữu công khai được thể hiện chính là ở việc người chiếm hữu thực hiện các tác động vật chất đối với tài sản một cách minh bạch, không giấu giếm. Người chiếm hữu có thể nắm giữ, chi phối tài sản một cách rõ ràng, không che giấu vì một ý đồ gì. Cần phân biệt việc chiếm hữu giấu giếm với trường hợp chiếm hữu với loại tài sản đặc thù không thể hiện ra bên ngoài, ví dụ: mua vàng để cất giữ trong két sắt, dù không thể hiện ra bên ngoài cho các chủ thể khác biết về việc để dành tài sản là vàng này nhưng người chiếm hữu này không hướng đến việc giấu giếm nhằm một ý đồ gì. Ngoài ra, chiếm hữu công khai còn thể hiện qua việc chủ thể chiếm hữu có đầy đủ căn cứ chứng minh tình trạng chiếm hữu của mình đối với tài sản, thể hiện tính minh bạch trong việc chiếm hữu tài sản.

Việc chiếm hữu liên tục, công khai vừa có ý nghĩa trong xác định và bảo vệ quyền sở hữu của chủ sở hữu, vừa là căn cứ quan trọng để xác định quyền sở hữu theo thời hiệu theo quy định tại Điều 236 Bộ luật Dân sự năm  2015: “ Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan có quy định khác”.

Điều 184 về suy đoán về tình trạng và quyền của người chiếm hữu là điều luật mới được ghi nhận trong nội dung Chiếm hữu của Bộ luật Dân sự năm 2015. Theo đó, chủ thể chiếm hữu tài sản được suy đoán là ngay tình. Sự suy đoán này dựa trên cơ sở sự chiếm hữu thực tế đối với tài sản của chủ thể chiếm hữu, bao gồm: (1) Người chiếm hữu tài sản dựa trên cơ sở sự thỏa thuận với chủ sở hữu. Họ là người kiểm soát thực tế đối với tài sản đồng thời thừa nhận mình không có quyền sở hữu đối với tài sản đó. Họ chiếm hữu tài sản dựa trên ý chí của người khác. (2) Người chiếm hữu tài sản không dựa trên sự thỏa thuận với chủ sở hữu. Đó là những trường hợp chiếm hữu dựa trên quy định của pháp luật hoặc thông qua hành vi bất hợp pháp. Trong trường hợp này, ngoài việc chiếm giữ tài sản, họ còn mong muốn chiếm hữu tài sản theo ý chí của mình.

Trong hai trường hợp trên, dù là nguồn gốc việc chiếm hữu tài sản là từ đâu thì người chiếm hữu tài sản luôn được suy đoán là ngay tình. Người cho rằng chủ thể chiếm hữu đó không ngay tình thì phải chứng minh, sự chứng minh này hướng đến việc phủ nhận quyền chiếm hữu thực tế của chủ thể đang nắm giữ tài sản. Đây là một quy định hướng đến việc bảo vệ quyền hiện hữu của chủ thể chiếm hữu tài sản (đó là chủ sở hữu, người có quyền chiếm hữu hay thậm chí là tình trạng chiếm hữu của chủ thể).

Khi xảy ra tranh chấp về quyền đối với tài sản thì người chiếm hữu được ưu tiên suy đoán là người có quyền đó. Việc chứng minh người chiếm hữu không có quyền thuộc về người có tranh chấp với người chiếm hữu. Trong trường hợp chủ sở hữu của tài sản phủ nhận quyền của người chiếm hữu thì cũng không có ngoại lệ, đòi hỏi chủ sở hữu phải đưa ra các căn cứ chứng minh quyền sở hữu tài sản của mình cũng như chứng minh người chiếm hữu không có quyền đối với tài sản. Ví dụ: A là chủ sở hữu một chiếc xe máy, A cho B mượn, sau đó B bán chiếc xe máy đó cho C. A muốn phủ nhận việc chiếm hữu xe máy của C thì A phải chứng minh quyền sở hữu của mình, có thể thông qua dấu hiệu đặc trưng của tài sản, qua giấy đăng ký quyền sở hữu xe máy,…

Việc chiếm hữu ngay tình, liên tục, công khai được coi là căn cứ để áp dụng thời hiệu hưởng quyền và hưởng hoa lợi, lợi tức mà tài sản mang lại. Đây là một quy định mới trong BLDS 2015 hướng đến việc bảo vệ việc chiếm hữu có căn cứ pháp luật của chủ thể. Chủ thể chiếm hữu tài sản này bao gồm: Chủ sở hữu chiếm hữu tài sản; Người được chủ sở hữu ủy quyền quản lý tài sản; Người được chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự phù hợp với quy định của pháp luật; Người phát hiện và giữ tài sản vô chủ, tài sản không xác định được ai là chủ sở hữu, tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm phù hợp với điều kiện theo quy định của Bộ luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan; Người phát hiện và giữ gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước bị thất lạc phù hợp với điều kiện theo quy định của Bộ luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan và trường hợp khác do pháp luật quy định.

Trong trường hợp việc chiếm hữu bị người khác xâm phạm thì người chiếm hữu hợp pháp được pháp luật bảo vệ. Trên thực tế, người chiếm hữu hợp pháp có quyền tự bảo vệ việc chiếm hữu của mình bằng rất nhiều cách thức khác nhau như tự bảo quản, giữ gìn tài sản.

Người chiếm hữu có thể tự mình thực hiện quyền yêu cầu người có hành vi xâm phạm phải chấm dứt hành vi, khôi phục tình trạng ban đầu, trả lại tài sản và bồi thường thiệt hại bằng những biện pháp không trái quy định của pháp luật. Hoặc người chiếm hữu có thể yêu cầu Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm việc chiếm hữu thực hiện các trách nhiệm này khi họ.

Thứ hai, về quyền sử dụng

Điều 189 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Quyền sử dụng là quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản. Quyền sử dụng có thể được chuyển giao cho người khác theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật”.

Đối với quyền sử dụng của chủ sở hữu, chủ sở hữu được sử dụng tài sản theo ý chí của mình nhưng không được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác; Đồng thời, người không phải là chủ sở hữu được sử dụng tài sản theo thoả thuận với chủ sở hữu hoặc theo quy định của pháp luật.

Thứ ba, về quyền định đoạt

Điều 192 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Quyền định đoạt là quyền chuyển giao quyền sở hữu tài sản, từ bỏ quyền sở hữu, tiêu dùng hoặc tiêu huỷ tài sản”. Pháp luật quy định cho cá nhân là chủ sở hữu hoặc không phải là chủ sở hữu có quyền định đoạt về tài sản, tuy nhiên để có quyền định đoạt thì phải đáp ứng những điều kiện nhất định về năng lực hành vi và các trình tự, thủ tục do pháp luật quy định: (i) về năng lực hành vi, việc định đoạt tài sản phải do người có năng lực hành vi dân sự thực hiện theo quy định của pháp luật; (ii) về trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật về định đoạt tài sản: trong trường hợp pháp luật có quy định về trình tự, thủ tục định đoạt thì cần phải tuân thủ theo trình tự, thủ tục đó.

Về chủ thể có quyền định đoạt, Bộ luật Dân sự năm 2015 có quy định chủ thể có quyền định đoạt là chủ sở hữu  và người không phải chủ sở hữu.

Một là, tại Điều 194 có quy định về quyền định đoạt đối với chủ sở hữu như sau: “Chủ sở hữu có quyền bán, trao đổi, tặng cho, cho vay, để thừa kế, từ bỏ quyền sở hữu, tiêu dùng, tiêu huỷ hoặc thực hiện các hình thức định đoạt khác phù hợp với quy định của pháp luật đối với tài sản”.

Hai là, quyền định đoạt đối với người không phải chủ sở hữu được quy định tại Điều 195: “Người không phải là chủ sở hữu tài sản chỉ có quyền định đoạt tài sản theo uỷ quyền của chủ sở hữu hoặc theo quy định của luật”.

Bên cạnh đó thì Bộ luật cũng quy định những hạn chế cơ bản của quyền định đoạt, điều đó được thể hiện cụ thể tại Điều 196 Bộ luật Dân sự năm 2015: “1. Quyền định đoạt chỉ bị hạn chế trong trường hợp do luật quy định; 2. Khi tài sản đem bán là tài sản thuộc di tích lịch sử - văn hoá theo quy định của Luật di sản văn hoá thì Nhà nước có quyền ưu tiên mua; Trường hợp cá nhân, pháp nhân có quyền ưu tiên mua đối với tài sản nhất định theo quy định của pháp luật thì khi bán tài sản, chủ sở hữu phải dành quyền ưu tiên mua cho các chủ thể đó”.

Quyền định đoạt có vai trò rất quan trọng đối với chủ sở hữu, nên pháp luật quy định như vậy là hợp lý để bảo vệ những quyền vốn có của chủ sở hữu.

Tóm lại, chế định tài sản và quyền sở hữu được quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2015 là sự kế thừa chế định tài sản trong các Bộ luật Dân sự trước đó, đồng thời cũng đã sửa đổi, bổ sung nhiều vấn đề quan trọng thể hiện sự phát triển của chế định này trong lịch sử xây dựng pháp luật về dân sự. Đây là một đòi hỏi tất yếu của quá trình hoàn thiện các quy định của luật dân sự nước nhà, trong đó chế định tài sản và quyền sở hữu là một trong những chế định trọng tâm, quan trọng của Bộ luật Dân sự, nên việc bổ sung, hoàn thiện chế định này là rất quan trọng, làm cơ sở tiền đề để xây dựng cũng như áp dụng thống nhất các chế định khác có liên quan.

4. Bảo vệ quyền sở hữu là gì?

Bảo vệ quyền sở hữu là quyền pháp luật quy định cho phép cá nhân có quyền tự bảo vệ hoặc ngăn chặn người khác xâm phạm quyền của mình. Là biện pháp tác động bằng pháp luật đối với hành vi xử sự của con người, ngăn ngừa những hành vi xâm hại đến chủ sở hữu khi người này hành xử quyền của mình.

5. Các phương thức bảo vệ quyền sở hữu:

5.1. Kiện đòi lại tài sản (kiện vật quyền):

“Kiện đòi lại tài sản là việc chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp yêu cầu tòa án buộc người có hành vi chiếm hữu trái pháp luật phải trả lại tài sản cho mình. Mục đích của người khởi kiện khi thực hiện phương thức này là lấy lại được tài sản của mình đang bị người khác chiếm hữu trái pháp luật”.

Do đó, khi áp dụng phương thức này đòi hỏi phải thỏa mãn các điều kiện sau đây:

Thứ nhất, về chủ thể (nguyên đơn) là chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp đối với tài sản đó như người thuê tài sản, người nhận gửi giữ tài sản, người nhận cầm đồ… Những người này yêu cầu phải chứng minh được quyền sở hữu của mình đối với tài sản hoặc chứng minh được mình là người chiếm hữu hợp pháp đối với tài sản.

Thứ hai, người bị khởi kiện (bị đơn) phải là người đang chiếm hữu bất hợp pháp đối với tài sản. Điều này rất quan trọng vì nhiều khi chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp phát hiện ra người chiếm hữu tài sản của mình lúc trước nhưng lúc này người chiếm hữu tài sản đó trở thành chủ sở hữu của tài sản do được xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu được quy định theo Điều 247 Bộ luật dân sự năm 2015 hoặc do hết thời hiệu hưởng quyền dân sự trong trường hợp nhặt được tài sản đánh rơi, phát hiện gia súc, gia cầm thất lạc được quy định tại Điều 241, 242, 243 Bộ luật dân sự năm 2015…

Thứ ba, tài sản phải còn trong sự chiếm hữu của chủ thể chiếm hữu bất hợp pháp. Nếu tài sản không còn tồn tại do thất lạc hoặc bị tiêu hủy thì lúc này không thể áp dụng phương thức kiện đòi lại tài sản mà chỉ có thể áp dụng phương thức kiện đòi bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, vật hiện còn có thể được hiểu là còn nguyên ở trạng thái ban đầu hoặc về cơ bản vẫn còn nhưng đã bị giảm sút hoặc đã được làm tăng giá trị.

Thứ tư, không rơi vào các trường hợp pháp luật quy định không phải trả lại tài sản được quy định ở Điều 257, 258 Bộ Luật dân sự năm 2015.

Điều 257 Bộ Luật dân sự năm 2015 quy định về việc đòi lại động sản không có đăng kí quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình. Theo đó thì chủ sở hữu chỉ đòi lại được tài sản nếu người chiếm hữu ngay tình có được động sản đó thông qua giao dịch không có đền bù với người không có quyền định đoạt tài sản hoặc trong trường hợp hợp đồng này là hợp đồng có đền bù thì chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản nếu động sản đó bị lấy cắp, bị thất lạc hoặc trường hợp bị người khác chiếm hữu ngoài ý muốn của chủ sở hữu. Như vậy, nếu người ngay tình có được tài sản thông qua giao dịch có đền bù và tài sản đó không phải là tài sản bị mất cắp, bị chiếm hữu ngoài ý trí của chủ sở hữu thì nguyên đơn không thể kiện đòi lại tài sản.

Đối với động sản phải đăng kí quyền sở hữu hoặc bất động sản thì Điều 258 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định như sau:

“Chủ sở hữu được đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu và bất động sản, trừ trường hợp người thứ ba chiếm hữu ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa”.

Việc một người có được tài sản thông qua việc mua đấu giá hoặc giao dịch với người đã được cơ quan Nhà nước công nhận là chủ sở hữu của tài sản là trường hợp mà người ngay tình hoàn toàn không có lỗi và họ sẽ được pháp luật bảo vệ. Chính vì vậy trong trường hợp này người chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp không thể kiện đòi lại tài sản từ người chiếm hữu ngay tình mà chỉ có thể áp dụng phương thức kiện khác để bảo vệ quyền sở hữu của mình như kiện yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại.

– Hậu quả của việc áp dụng phương thức kiện đòi lại tài sản:

Khi phương thức kiện đòi lại tài sản thỏa mãn các điều kiện đặt ra thì người chiếm hữu tài sản buộc phải trả lại tài sản cho chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp. Tuy nhiên, hậu quả pháp lý sẽ khác nhau trong hai trường hợp sau đây:

Thứ nhất, đối với người chiếm hữu, sử dụng, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình thì ý chí của họ hoàn toàn ngay thẳng và họ coi đó là tài sản của mình và họ cần được pháp luật bảo vệ. Chính vì vậy, theo Điều 200 Bộ luật dân sự năm 2015 thì những người này được quyền sử dụng tài sản. Do đó, khi phải trả lại tài sản thì người chiếm hữu, sử dụng, được lợi không có căn cứ pháp luật ngay tình không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đó Điều 601 Bộ luật dân sự năm 2015.

Thứ hai, đối với người đang chiếm hữu tài sản là người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật và không ngay tình thì người đó luôn luôn phải trả lại tài sản đồng thời phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức có được trong thời gian chiếm hữu tài sản cho chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp.

Như vậy, sự ghi nhận của pháp luật đối với phương thức kiện đòi lại tài sản thể hiện thái độ tôn trọng và bảo vệ tuyệt đối của Nhà nước đối với quyền sở hữu hợp pháp của chủ thể trong xã hội. Thông thường, chủ sở hữu nào cũng muốn phương thức kiện đòi lại tài sản vì đó là phương thức bảo hộ thiết thực và hiệu quả mà không cần quan tâm đến khả năng tài chính của người phải thực hiện nghĩa vụ. Tuy nhiên, nếu không thỏa mãn các điều kiện đòi lại tài sản thì chủ thể bị xâm phạm có thể áp dụng phương thức kiện đòi bồi thường thiệt hại để bảo vệ lợi ích của mình.

5.2. Kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại (kiện trái quyền):

Kiện đòi bồi thường thiệt hại về tài sản là việc chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp yêu cầu tòa án buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu phải bồi thường thiệt hại cho mình.

Trong trường hợp một người có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại tới tài sản của người khác thì chủ sở hữu của tài sản có quyền kiện tới tòa án yêu cầu bồi thường thiệt hại. Trong trường hợp này, chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp đã không thể kiện đòi lại tài sản do tài sản đã bị hư hỏng hoặc đang nằm trong sự chiếm hữu của chủ thể khác không xác định được hoặc người chiếm hữu tài sản đó là người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật ngay tình và không phải trả lại tài sản.

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tài sản cho chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp có thể đặt ra đối với trường hợp bồi thường thiệt hại theo hợp đồng hoặc ngoài hợp đồng.

Đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng thì các bên có thể thỏa thuận về điều kiện bồi thường, mức bồi thường, phương thức bồi thường… trong hợp đồng khi có tranh chấp xảy ra, cơ quan Nhà nước căn cứ vào sự thỏa thuận của các bên trong hợp đồng để giải quyết.

Đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì điều kiện để có thể áp dụng biện pháp khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại do tài sản bị xâm phạm bao gồm:

Thứ nhất, có thiệt hại xảy ra, đây là điều kiện đầu tiên, cần thiết để áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại bởi lẽ trách nhiệm bồi thường thiệt hại được đặt ra là nhằm khôi phục thiệt hại cho người bị thiệt hại. Do đó, nếu không có thiệt hại xảy ra thì cũng không thể buộc người có hành vi xâm phạm phải bồi thường thiệt hại.

Thứ hai, có hành vi trái pháp luật. Nếu hành vi gây thiệt hại là hành vi hợp pháp như trường hợp người gây thiệt hại khi đang thi hành công vụ, gây thiệt hại trong trường hợp phòng vệ chính đáng hoặc tình thế cấp thiết thì người gây thiệt hại sẽ không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

Thứ ba, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra. Hành vi trái pháp luật phải là nguyên nhân và tất yếu dẫn tới thiệt hại xảy ra về tài sản thì người có hành vi đó mới phải chịu trách nhiệm bồi thường. Nếu nguyên nhân không phải do hành vi đó gây ra thiệt hại về tài sản mà tài sản đó tự bị hư hỏng do hết thời gian sử dụng, chất lượng kém… thì người thực hiện hành vi đó không phải bồi thường thiệt hại mà chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp sẽ phải chịu rủi ro.

Thứ tư, có lỗi của người gây thiệt hại. Người gây thiệt hại chỉ phải bồi thường thiệt hại nếu có lỗi gây ra thiệt hại trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Nếu gây ra thiệt hại trong trường hợp bất khả kháng hoặc thiệt hại gây ra là hoàn toàn do lỗi của chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp đối với tài sản thì người gây thiệt hại sẽ không phải chịu trách nhiệm bồi thường.

Tuy nhiên, cần lưu ý , trong trường hợp tài sản bị gây thiệt hại không phải do hành vi của con người gây ra mà do tài sản gây ra thì chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp vẫn có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại nếu chứng minh được thiệt hại xảy ra với nguyên nhân chính là do tài sản đó gây ra. Trong trường hợp này chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp hoặc người chiếm hữu bất hợp pháp tài sản gây ra thiệt hại sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp bị tài sản xâm hại.

– Hậu quả của việc áp dụng phương thức kiện đòi bồi thường thiệt hại.

Nếu các bên không có thỏa thuận về mức bồi thường, phương thức bồi thường thì thiệt hại về tài sản được bồi thường toàn bộ theo nguyên tắc thiệt hại bao nhiêu thì bồi thường bấy nhiêu và có thể bao gồm những thiệt hại sau đây:

– Thiệt hại do tài sản bị mất.

– Thiệt hại do tài sản bị thiệt hại hoặc bị hư hỏng.

– Lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản.

– Chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại.

5.3. Kiện yêu cầu ngăn chặn hoặc chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp:

Theo Điều 259 Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định:

“Khi thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu của mình, chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người có hành vi cản trở trái pháp luật phải chấm dứt hành vi đó; nếu không có sự chấm dứt tự nguyện thì có quyền yêu cầu Tòa án, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác buộc người đó chấm dứt hành vi vi phạm”.

Theo quy định trên thì khi phát hiện hành vi xâm phạm tới việc thực hiện các quyền năng của mình thì chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có một trong hai quyền sau:

Thứ nhất, tự mình yêu cầu người có hành vi cản trở trái pháp luật phải chấm dứt hành vi đó. Ngay khi phát hiện ra hành vi xâm phạm hoặc khả năng xâm phạm quyền lợi ích chính đáng của mình, chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người xâm phạm chấm dứt hành vi mà không cần chờ bất kỳ một thủ tục nào. Biện pháp tự bảo vệ này mang tính kịp thời, tạo khả năng ngăn chặn hành vi xâm phạm ngay từ đầu, tránh được vụ việc xâm phạm trở nên nghiêm trọng hơn.

Thứ hai, yêu cầu tòa án, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc người có hành vi xâm phạm chấm dứt hành vi xâm phạm đó. Nếu biện pháp tự yêu cầu của chủ thể đạt hiệu quả không cao và bên xâm phạm không tự nguyện, thiện chí chấm dứt hành vi xâm phạm, khắc phục hậu quả đã gây ra thì pháp luật cho phép chủ sở hữu có quyền yêu cầu tòa án, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết. Khi đó các cơ quan này sẽ sử dụng quyền lực Nhà nước để buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp tài sản của người khác phải chấm dứt hành vi vi phạm.

Mục đích của phương pháp này là nhằm bảo đảm để chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp được sử dụng và khai thác công dụng của tài sản một cách bình thường. Do đó, khi phương thức kiện này được áp dụng thì sẽ mang lại hậu quả pháp lý là người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu của người khác bị buộc phải chấm dứt hành vi xâm phạm như dừng việc xây dựng lấn chiếm sang đất nhà hàng xóm, xây bịt lối đi chung…

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo