Tạm đình chỉ điều tra là một giai đoạn điều tra mà do những lý do khách quan cơ quan điều tra phải tạm dừng các hoạt động điều tra nhưng chưa đưa ra những kết luận cuối cùng về kết quả điều tra, chưa khẳng định về việc tiếp tục điều tra hay không. Vậy Căn cứ tạm đình chỉ điều tra bị can được quy định như thế nào? Hãy cùng ACC tìm hiểu qua bài viết dưới đây!
1. Tạm đình chỉ điều tra là gì?
Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2021, tạm đình chỉ điều tra là việc cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra tạm ngừng hoạt động điều tra đối với vụ án; hoặc đối với bị can trong một thời hạn nhất định khi có những căn cứ theo quy định của pháp luật.
Thời hạn tạm đình chỉ điều tra việc tùy thuộc vào căn cứ tạm đình chỉ điều tra của vụ án hoặc đối với bị can.
2. Quy định về tạm đình chỉ điều tra
Căn cứ theo quy định tại Điều 229 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2021, tạm đình chỉ điều tra vụ án hình sự được quy định như sau:
- Cơ quan điều tra ra quyết định tạm đình chỉ điều tra khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Chưa xác định được bị can hoặc không biết rõ bị can đang ở đâu nhưng đã hết thời hạn điều tra vụ án. Trường hợp không biết rõ bị can đang ở đâu, Cơ quan điều tra phải ra quyết định truy nã trước khi tạm đình chỉ điều tra.
- Có kết luận giám định tư pháp xác định bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo thì có thể tạm đình chỉ điều tra trước khi hết thời hạn điều tra;
- Trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp chưa có kết quả nhưng đã hết thời hạn điều tra. Trong trường hợp này, việc giám định, định giá tài sản, tương trợ tư pháp vẫn tiếp tục được tiến hành cho đến khi có kết quả.
- Trường hợp vụ án có nhiều bị can mà lý do tạm đình chỉ điều tra không liên quan đến tất cả bị can thì có thể tạm đình chỉ điều tra đối với từng bị can.
- Trong thời hạn 02 ngày kể từ ngày ra quyết định tạm đình chỉ điều tra, Cơ quan điều tra phải gửi quyết định này cho Viện kiểm sát cùng cấp, bị can, người bào chữa hoặc người đại diện của bị can; thông báo cho bị hại, đương sự và người bảo vệ quyền lợi của họ.
- Quyết định đình chỉ điều tra ghi rõ thời gian, địa điểm ra quyết định, lý do và căn cứ đình chỉ điều tra, việc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, trả lại tài liệu, đồ vật đã tạm giữ (nếu có), việc xử lý vật chứng và những vấn đề khác có liên quan. Trường hợp vụ án có nhiều bị can mà căn cứ để đình chỉ điều tra không liên quan đến tất cả bị can thì có thể đình chỉ điều tra đối với từng bị can.
- Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được quyết định đình chỉ điều tra kèm theo hồ sơ vụ án của Cơ quan điều tra, nếu thấy quyết định đình chỉ điều tra có căn cứ thì Viện kiểm sát phải trả lại hồ sơ vụ án cho Cơ quan điều tra để giải quyết theo thẩm quyền; nếu thấy quyết định đình chỉ điều tra không có căn cứ thì hủy bỏ quyết định đình chỉ điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra phục hồi điều tra; nếu thấy đủ căn cứ để truy tố thì hủy bỏ quyết định đình chỉ điều tra và ra quyết định truy tố theo thời hạn, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2021.
3. Căn cứ tạm đình chỉ điều tra bị can
Vấn đề này được quy định tại Điều 229 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2021, căn cứ tạm đình chỉ điều tra vụ án bao gồm:
- Khi chưa xác định được bị can hoặc không biết rõ bị can đang ở đâu nhưng đã hết thời hạn điều tra vụ án. Trường hợp không biết rõ bị can đang ở đâu, cơ quan điều tra phải ra quyết định truy nã trước khi tạm đình chỉ điều tra. Đây là trường hợp cơ quan điều tra đã xin gia hạn và sử dụng hết thời hạn điều tra vụ án mà vẫn không xác định được ai là bị can thì phải quyết định tạm đình chỉ điều tra. Còn trường hợp không biết rõ bị can đang ở đâu thì cơ quan điều tra phải ra quyết định truy nã bị can trước khi ra quyết định tạm đình chỉ điều tra theo Điều 231 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2021.
- Khi có kết luận giám định tư pháp xác định bị can bị bệnh tâm thần; hoặc bệnh hiểm nghèo thì có thể tạm đình chỉ điều tra trước khi hết thời hạn điều tra.
- Khi trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản; yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp chưa có kết quả nhưng đã hết thời hạn điều tra. Trong trường hợp này, việc giám định, định giá tài sản, tương trợ tư pháp vẫn tiếp tục được tiến hành cho đến khi có kết quả.
- Trường hợp vụ án có nhiều bị can mà lý do tạm đình chỉ điều tra không liên quan đến tất cả bị can; thì có thể tạm đình chỉ điều tra đối với từng bị can.
4. Một số ý nghĩa của việc tạm đình chỉ điều tra
Quy định về tạm đình chỉ điều tra còn nhằm khắc phục hiện tượng quá tải, tồn động án ở khâu điều tra khi có những yếu tố bất khả kháng, để giảm bớt nhu cầu sử dụng lực lượng điều tra và giảm tối đa những chi phí vật chất không cần thiết cho hoạt động tố tụng này.
Mặt khác, tạm đình chỉ điều tra còn là một giải pháp có ý nghĩa chủ động trong việc đề phòng những oan sai có thể xảy ra trong thực tiễn điều tra.
Việc tạm đình chỉ điều tra sẽ giúp cơ quan điều tra giảm bớt khả năng phải xin gia hạn điều tra, khi không cần thiết phải kéo dài thời hạn chờ đợi để tiến hành các hoạt động điều tra cần thiết.
Điều luật quy định những trường hợp tạm đình chỉ điều tra, những điều kiện để tạm đình chỉ điều tra và trình tự, thủ tục thực hiện việc tạm đình chỉ điều tra. Căn cứ vào những quy định trong Điều luật thì tạm đình chỉ điều tra được thực hiện khi có một trong hai trường hợp sau đây: Khi bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo khác; Trong trường hợp chưa xác định được bị can hoặc không biết rõ bị can đang ở đâu mà đã hết thời hạn điều tra.
Nội dung bài viết:
Bình luận