Quan hệ dân sự là một trong những mối quan hệ phức tạp, thường xuyên nảy sinh mâu thuẫn. Xuất phát từ những giao dịch dân sự mỗi cá nhân đều mang trong mình trách nhiệm gắn liền với nghĩa vụ. Vậy, trách nhiệm dân sự trong hợp đồng là gì? Khi nào cá nhân phải chịu trách nhiệm dân sự? Các loại trách nhiệm dân sự theo quy định hiện hành? ACC xin giải đáp qua bài viết sau đây.

1. Trách nhiệm dân sự là gì?
Trước khi hiểu khái niệm trách nhiệm dân sự, ta cần làm rõ khái niệm trách nhiệm.
Trách nhiệm có thể được hiểu theo hai nghĩa:
Một là “phần việc được giao cho hoặc coi như được giao cho, phải bảo đảm thực hiện đúng, đủ theo yêu cầu, nếu kết quả không tốt thì phải gánh chịu phần hậu quả”,
Hai là “sự ràng buộc đối với lời nói, hành vi của mình, bảo đảm đúng đắn, nếu sai trái thì phải gánh chịu phần hậu quả.
Theo đó trách nhiệm dân sự là sự ràng buộc của Nhà nước đối với cá nhân, tổ chức trong quan hệ dân sự.
Là trách nhiệm pháp lý mang tính tài sản được áp dụng đối với người vi phạm pháp luật dân sự, trách nhiệm dân sự bù đắp về tổn thất vật chất, tinh thần cho người bị thiệt hại.
Nếu hiểu theo nghĩa này, trách nhiệm dân sự là loại trách nhiệm pháp lý được đặt ra khi và chỉ khi có vi phạm dân sự.
Trách nhiệm dân sự theo nghĩa rộng là các biện pháp có tính cưỡng chế được áp dụng nhằm khôi phục lại tình trạng ban đầu của một quyền dân sự bị vi phạm.
2. Phân loại trách nhiệm dân sự
2.1. Trách nhiệm dân sự trong hợp đồng
Bộ Luật dân sự quy định (Khoản 1 Điều 302): “Bên có nghĩa vụ mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì phải chịu trách nhiệm dân sự đối với bên có quyền. Trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thể thực hiện được nghĩa vụ dân sự do sự kiện bất khả kháng thì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Bên có nghĩa vụ không phải chịu trách nhiệm dân sự nếu chứng minh được nghĩa vụ không thực hiện được là hoàn toàn do lỗi của bên có quyền”.
Như vậy, trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ dân sự, hình thành giữa các bên chủ thể trong một quan hệ nghĩa vụ, nó chỉ phát sinh khi có sự vi phạm nghĩa vụ. Quan hệ pháp luật dân sự được gọi là “nghĩa vụ dân sự” nếu việc thực hiện nghĩa vụ của các bên đang trong thời hạn đã được xác định và các bên được tự giác thực hiện nghĩa vụ đó. Trong thời hạn đó, cơ quan nhà nước có thẩm quyền không thể cưỡng chế các chủ thể thực hiện nghĩa vụ. Khi một bên vi phạm nghĩa vụ (hết thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ), thì kể từ thời điểm nghĩa vụ bị vi phạm, quan hệ đó được gọi là trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ dân sự.
2.2. Trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng
Bộ Luật dân sự quy định: “Người nào do lỗi cố ý hoặc vô ý xâm phạm đến sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, xâm phạm đến uy tín tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường” (Điều 604).
Như vậy, có thể thấy rằng trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là quy định của Bộ Luật dân sự nhằm buộc người có hành vi xâm phạm đến tài sản, sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín, các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác mà gây ra thiệt hại phải bồi thường những thiệt hại do mình gây ra. Nếu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ được hình thành giữa các chủ thể trong một quan hệ nghĩa vụ đang tồn tại thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh giữa các chủ thể bất kì.
3. Tính chất của trách nhiệm dân sự
– Căn cứ phát sinh trách nhiệm là hành vi vi phạm pháp luật dân sự và chỉ áp dụng với người thực hiện hành vi vi phạm đó;
– Tính chất của chế tài là hậu quả pháp lý bất lợi mang tính tài sản dành cho người thực hiện hành vi vi phạm;
– Là một biện pháp cưỡng chế mang tính chất pháp lý, do đó được đảm bảo thi hành bởi pháp luật và bộ máy cưỡng chế của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Về nguồn gốc phát sinh:
Trong BLDS hiện hành, quy định về TNDS do vi phạm hợp đồng được xây dựng nên bởi các quy phạm điều chỉnh chế định hợp đồng. Nói cách khác, quy định về TNDS trong hợp đồng có thể coi là một phần của chế định hợp đồng trong pháp luật dân sự. Theo đó, TNDS do vi phạm hợp đồng chỉ tồn tại khi một hợp đồng tồn tại, trách nhiệm này chỉ phát sinh khi xuất hiện sự vi phạm một hay nhiều nghĩa vụ được quy định trong hợp đồng. Trong khi đó, TNDS ngoài hợp đồng là các loại TNDS phát sinh bên ngoài, không phụ thuộc vào hợp đồng, mà chỉ cần tồn tại một hành vi vi phạm pháp luật dân sự, cố ý hay vô ý, gây thiệt hại cho người khác và hành vi này cũng không liên quan đến bất cứ một hợp đồng nào có thể có giữa người gây thiệt hại và người bị thiệt hại.
Về căn cứ xác định trách nhiệm:
Thiệt hại, bao gồm thiệt hại về vật chất và tinh thần, không chỉ là nền tảng cơ bản mà còn là điều kiện bắt buộc của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng; trong khi đó thiệt hại không phải là điều kiện bắt buộc trong việc xác định TNDS trong hợp đồng, bởi chỉ cần có hành vi vi phạm nghĩa vụ đã có thể phát sinh TNDS và khi xét đến vấn đề thiệt hại trong hợp đồng, chỉ xét đến những tổn thất về mặt vật chất. Nói rõ hơn, bên vi phạm vẫn phải chịu trách nhiệm dù đã có hay chưa có thiệt hại xảy ra khi bên kia bị vi phạm hợp đồng. Bên cạnh đó, khi xem xét đến hành vi vi phạm, thì đối với TNDS trong hợp đồng, hành vi này là hành vi vi phạm những cam kết cụ thể, những nghĩa vụ mà hai bên tự ràng buộc nhau trong hợp đồng, tức là hành vi này chưa chắc đã vi phạm các quy định pháp luật chung mà chỉ vi phạm “pháp luật” thiết lập giữa những người tham gia giao kết hợp đồng; còn đối với TNDS ngoài hợp đồng, hành vi này là hành vi vi phạm những quy định của pháp luật nói chung, những quy định do Nhà nước ban hành dẫn đến thiệt hại, vì vậy đó có thể là hành vi vi phạm những quy định của pháp luật chuyên ngành khác như hình sự, hành chính, kinh tế…
Đối với TNDS trong hợp đồng, khi hợp đồng được giao kết, các bên có nghĩa vụ thực hiện đúng những cam kết đã thỏa thuận trong hợp đồng. Nếu một bên không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ là vi phạm hợp đồng. Hai bên có thể dự liệu và thỏa thuận trước về những trường hợp thiệt hại do vi phạm hợp đồng và cách thức chịu trách nhiệm như bồi thường thiệt hại hay phạt vi phạm. Trong khi đó, đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, căn cứ xác định trách nhiệm là hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại và lỗi.
Về phương thức thực hiện trách nhiệm:
Đối với TNDS do vi phạm hợp đồng, các bên có thể thỏa thuận mức bồi thường hay phạt vi phạm kể từ khi giao kết hợp đồng (thể hiện bản chất thỏa thuận của hợp đồng). Đối với TNDS ngoài hợp đồng thì bên gây thiệt hại phải bồi thường toàn bộ và kịp thời, cả thiệt hại trực tiếp và thiệt hại gián tiếp, điều quan trọng là các bên trong quan hệ TNDS không biết nhau và không biết trước việc sẽ xảy ra để làm phát sinh quan hệ TNDS, do đó không thể thỏa thuận trước bất cứ một việc gì. Việc thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thường sẽ làm chấm dứt nghĩa vụ. Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Yếu tố lỗi:
TNDS trong hợp đồng phát sinh do lỗi cố ý hoặc vô ý của người không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác; còn trong TNDS ngoài hợp đồng, việc phân biệt lỗi cố ý và vô ý cũng có ý nghĩa nhưng bên cạnh đó thì người có hành vi vi phạm có thể chịu trách nhiệm ngay cả khi không có lỗi trong trường hợp pháp luật có quy định, như Khoản 2 Điều 604 “Bộ luật dân sự năm 2015”: “Trong trường hợp pháp luật quy định người gây thiệt hại phải bồi thường cả trong trường hợp không có lỗi thì áp dụng quy định đó”.
Về thời điểm xác định trách nhiệm:
Một trong những nội dung quan trọng để có thể xác định được đúng mức bồi thường thiệt hại của bên vi phạm là xác định thời điểm chịu TNDS, TNDS sẽ phát sinh tại thời điểm xảy ra thiệt hại hay tại thời điểm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên bị vi phạm, điều này tùy thuộc vào tính chất của TNDS. Đối với TNDS trong hợp đồng, thời điểm TNDS phát sinh kể từ thời điểm hợp đồng có hiệu lực và có bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng; còn với TNDS ngoài hợp đồng, TNDS phát sinh kể từ thời điểm xảy ra hành vi gây thiệt hại.
Về tính liên đới trong chịu TNDS:
Với TNDS do vi phạm hợp đồng, trường hợp nhiều người cùng gây thiệt hại thì họ liên đới chịu trách nhiệm nếu khi giao kết hợp đồng họ có thỏa thuận trước về vấn đề chịu trách nhiệm liên đới. Còn với TNDS ngoài hợp đồng, trong trường hợp nhiều người cùng gây thiệt hại thì họ đều phải chịu trách nhiệm liên đới theo các quy định cụ thể của pháp luật dân sự.
Nội dung bài viết:
Bình luận