Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có một số quy định mới về bị hại và nguyên đơn dân sự. Bị hại và nguyên đơn dân sự là hai khái niệm dễ gây nhầm lẫn cho nhiều người. Để có thể phân biệt được hai khái niệm này, hãy cùng ACC tìm hiểu qua bài biết dưới đây!
1. Khái quát về người tham gia tố tụng trong tố tụng hình sự
Điều 55 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định về người tham gia tố tụng bao gồm 20 loại, cụ thể là:
- Người tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố;
- Người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố;
- Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp;
- Người bị bắt;
- Người bị tạm giữ;
- Bị can;
- Bị cáo;
- Bị hại;
- Nguyên đơn dân sự;
- Bị đơn dân sự;
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án;
- Người làm chứng;
- Người chứng kiến;
- Người giám định;
- Người định giá tài sản;
- Người phiên dịch, người dịch thuật;
- Người bào chữa;
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự;
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố;
- Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân phạm tội, người đại diện khác.
2. Bị hại trong tố tụng hình sự
Khái niệm
Điều 51 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định: Người bị hại là người bị thiệt hại về vật chất, tinh thần hoặc tài sản do tội phạm gây ra.
Điều 62 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định: Bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra.
Như vậy, bị hại theo quy định của BLTTHS năm 2015 có các điểm mới so với BLTTHS năm 2003 là:
+ Về chủ thể bao gồm không chỉ cá nhân mà còn là cơ quan, tổ chức.
+ Về thiệt hại do tội phạm gây ra: Cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản còn nếu là cơ quan, tổ chức thì bị thiệt hại về tài sản, uy tín.
+ Thiệt hại của bị hại phải lả đối tượng tác động của tội phạm.
+ Công dân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại chỉ được tham gia tố tụng với tư cách là bị hại khi và chỉ khi được cơ quan tiến hành tố tụng công nhận.
Quyền và nghĩa vụ
Khoản 2 Điều 62 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định về quyền của bị hại, bao gồm các quyền cơ bản như:
+ Yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, trình bày ý kiến, tham gia phiên tòa, đề nghị hình phạt, mức bồi thường thiệt hại;
+ Tự bảo vệ hoặc nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình;
+ Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án;
+ Khiếu nại quyết định, hành vi của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Đồng thời, trong quá trình giải quyết vụ án, bị hại có nghĩa vụ:
+ Có mặt theo giấy triệu tập của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
+ Chấp hành quyết định, yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
3. Nguyên đơn dân sự trong tố tụng hình sự
Khái niệm
Điều 63 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định: Nguyên đơn dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do tội phạm gây ra và có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại. Nếu nguyên đơn dân sự là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về thể chất, tinh thần thì người đại diện hợp pháp có thể thay mặt họ thực hiện các quyền của nguyên đơn dân sự.
Quyền và nghĩa vụ:
Nguyên đơn dân sự có các quyền cơ bản sau đây:
+ Có quyền đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật yêu cầu;
+ Được thông báo kết quả điều tra, giải quyết vụ án;
+ Yêu cầu giám định, định giá tài sản theo quy định của pháp luật;
+ Đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật;
+ Đề nghị mức bồi thường thiệt hại, biện pháp bảo đảm bồi thường;
+ Tham gia phiên tòa và trình bày ý kiến, đề nghị;
+ Khiếu nại quyết định hành vi tố tụng của cơ quan, người tiến hành tố tụng;
+ Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án.
Đồng thời, nguyên đơn dân sự phải có các nghĩa vụ sau:
+ Có mặt theo giấy triệu tập của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
+ Trình bày trung thực những tình tiết liên quan đến việc bồi thường thiệt hại;
+ Chấp hành quyết định, yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
4. Phân biệt bị hại và nguyên đơn dân sự
Bị hại và nguyên đơn dân sự đều có chủ thể là cá nhân, cơ quan, tổ chức và có một số quyền như nhau theo quy định tại Điều 62, Điều 63 BLTTHS. Ngoài ra bị hại còn có thêm một số quyền mà nguyên đơn dân sự không có như: Được tham gia tố tụng ngay cả trong trường hợp không có yêu cầu, quyền trình bày buộc tội tại phiên tòa, quyền đề nghị hình phạt, quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án (nguyên đơn dân sự chỉ có quyền kháng cáo về phần bồi thường thiệt hại).
Tuy nhiên trên thực tiễn còn xảy ra xác định tư cách tham gia tố tụng không chính xác, nhất là trường hợp đối tượng bị thiệt hại là cơ quan, tổ chức. Vì vậy, để phân biệt bị hại và nguyên đơn dân sự thì căn cứ những điểm sau:
+ Về thiệt hại xảy ra:
- Bị hại: Là bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản, uy tín (nếu là cơ quan, tổ chức).
- Nguyên đơn dân sự: Chỉ bị thiệt hại về tài sản.
+ Về quan hệ nhân quả giữa hành vi và thiệt hại xảy ra:
- Bị hại bị thiệt hại trực tiếp từ hành vi phạm tội, mục đích của người phạm tội là trực tiếp gây ra thiệt hại cho chủ thể này.
Ví dụ: A trộm cắp tài sản của cơ quan X và bị khởi tố. Theo quy định của BLTTHS năm 2003 thì cơ quan X là nguyên đơn dân sự nhưng theo BLTTHS năm 2015 thì là bị hại trong vụ án hình sự.
- Nguyên đơn dân sự bị thiệt hại gián tiếp từ hành vi phạm tội, mục đích của người phạm tội không nhằm trực tiếp gây ra thiệt hại cho chủ thể này.
Ví dụ: A đánh B gây thương tích tại trụ sở cơ quan X. Hậu quả làm B bị thương còn cơ quan X cũng bị hư hỏng một số tài sản. A bị khởi tố về tội cố ý gây thương tích. Trong trường hợp này cơ quan X là nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự nếu có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại.
5. Ý nghĩa việc xác định tư cách chủ thể tham gia tố tụng
Xác định tư cách người tham gia tố tụng trong vụ án hình sự có ý nghĩa hết sức quan trọng, giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện đúng các quy định của pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự và các quy định pháp luật có liên quan. Việc xác định sai tư cách người tham gia tố tụng sẽ dẫn đến quyết định sai về phần trách nhiệm dân sự, quyền kháng cáo làm cho việc giải quyết vụ án hình sự không được toàn diện, triệt để.
Trên đây là những vấn đề pháp lý và cách phân biệt Bị hại và Nguyên đơn dân sự mà ACC muốn cung cấp cho bạn. Hi vọng bài viết sẽ hữu ích đối với quý bạn đọc!
Nội dung bài viết:
Bình luận