Bị đơn vắng mặt tại phiên hòa giải

Hòa giải là hoạt động tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự theo nghĩa rộng tại Tòa án. Vậy trong phiên hòa giải, trường hợp bị đơn vắng mặt sẽ xử lý như thế nào? Hãy cùng ACC tìm hiểu qua bài viết dưới đây!

Bị đơn Vắng Mặt Tại Phiên Tòa

1. Thành phần tham gia phiên hòa giải

Thành phần phiên hòa giải được quy định tại Điều 209 của BLTTDS năm 2015. Theo đó, thành phần người tham gia phiên họp gồm có:

- Các đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của các đương sự;

- Đại diện tổ chức đại diện tập thể lao động đối với vụ án lao động khi có yêu cầu của người lao động, trừ vụ án lao động đã có tổ chức đại diện tập thể lao động là người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho tập thể người lao động, người lao động.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự (nếu có);

- Người phiên dịch (nếu có).

- Cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan

- Đại diện cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam trong vụ án ly hôn khi cần thiết.

2. Xử lý trường hợp bị đơn vắng mặt tại phiên hòa giải

Lập biên bản hòa giải thành

Biên bản hòa giải thành là văn bản tố tụng ghi nhận toàn bộ vấn đề phải giải quyết trong vụ án mà đương sự có mặt tại phiên hòa giải đã thống nhất, thỏa thuận với nhau. Đây là căn cứ để Thẩm phán ký ban hành Quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự.

Theo quy định tại khoản 5 Điều 211 của BLTTDS năm 2015 thì trường hợp các đương sự thỏa thuận được với nhau về vấn đề phải giải quyết trong vụ án dân sự thì Tòa án lập biên bản hòa giải thành. Biên bản này được gửi ngay cho các đương sự tham gia hòa giải. Tuy nhiên, đối với trường hợp tại phiên hòa giải có đương sự vắng mặt thì Tòa án lập biên bản hòa giải thành trong trường hợp sau:

- Trường hợp các đương sự có mặt tại phiên hòa giải thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì thỏa thuận đó không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt. Có thể liệt kê một số trường hợp như: Theo đơn khởi kiện nguyên đơn yêu cầu hai bị đơn (thường là vợ chồng) cùng liên đới trả nợ nhưng tại phiên họp có mặt vợ hoặc chồng và nguyên đơn đồng ý chỉ yêu cầu vợ hoặc chồng là người có mặt trả nợ và không yêu cầu người vắng mặt trả nợ; Vụ án có người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng tại phiên hợp bị đơn thống nhất chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn và nguyên đơn không có yêu cầu gì đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên họp.

- Trường hợp các đương sự có mặt tại phiên hòa giải thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì thỏa thuận liên quan đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt nhưng trước khi mở phiên hòa giải, đương sự vắng mặt đã có văn bản nêu ý kiến của mình có nội chung chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với mình gửi cho Tòa án. Như vậy, trường hợp phiên hòa giải có đương sự nhất là bị đơn vắng mặt nhưng thỏa thuận của đương sự có mặt tại phiên hòa giải có ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt nhưng đương sự vắng mặt chưa có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn hoặc đã có ý kiến nhưng không đồng ý hoặc chỉ đồng ý một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì Tòa án không lập biên bản hòa giải thành.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 207 BLTTDS năm 2015, nếu như đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà bị đơn vẫn cố tình vắng mặt thì Tòa sẽ không tiến hành hòa giải.

Nhưng trong thực tiễn có trường hợp vụ án chỉ có đương sự là nguyên đơn và bị đơn, tại phiên hòa giải, bị đơn có đơn xin vắng mặt nhưng đã gửi văn bản cho Tòa án có ý kiến đồng ý toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn và chấp nhận chịu toàn bộ án phí thì Tòa án có được quyền lập biên bản hòa giải thành và sau đó là ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự hay không thì hiện nay còn có các quan điểm khác nhau. Có quan điểm cho rằng, nếu bị đơn vắng mặt thì Tòa án lập biên bản không hòa giải được theo quy định tại khoản 1 Điều 207 BLTTDS năm 2015 và tiến hành đưa vụ án ra xét xử. Nhưng cũng có quan điểm cho rằng, Tòa án có quyền lập biên bản hòa giải thành, sau đó, gửi biên bản hòa giải thành cho bị đơn, nếu hết thời gian 07 ngày làm việc kể từ ngày bị đơn nhận được bản sao biên bản  hòa giải thành mà bị đơn không có ý kiến bằng văn bản về việc thay đổi nội dung thỏa thuận thì Tòa án sẽ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự theo quy định của BLTTDS năm 2015.

Hòa giải có vai trò và ý nghĩa quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án, được xem là một trong những biện pháp giải quyết tranh chấp hiệu quả nhất. Tuy nhiên, với những bất cập đã nêu có thể thực tiễn sẽ có những nhận thức khác nhau và dẫn đến việc giải quyết vụ án nhất là ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự có thể có sai sót. Điều này, đòi hỏi Thẩm phán khi tiến hành hòa giải cần phải thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Đồng thời TANDTC cần tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật về công tác hòa giải để từ đó có hướng dẫn cụ thể hơn, tạo sự thống nhất trong áp dụng pháp luật tại các Tòa án địa phương hiện nay.

Trên đây là các những vấn đề liên quan đến việc xử lý bị đơn vắng mặt tại phiên hòa giải mà ACC muốn cung cấp cho quý bạn đọc. Mong rằng bài viết sẽ hỗ trợ và giải đáp thắc mắc cho các bạn!

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo