Quyền bào chữa là một trong những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự hiện nay. Việc thực hiện tốt các nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo giúp cho cơ quan tiến hành tố tụng xác định được sự thật khách quan của vụ án, giúp hoạt động tố tụng được tiến hành đúng trình tự, đảm bảo việc xét xử công minh, kịp thời, không để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội, đồng thời nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo trong quá trình tố tụng.

1. Chủ thể có quyền từ chối, thay đổi người bào chữa
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định rõ hơn những người có quyền từ chối hoặc đề nghị thay đổi người bào chữa là: người bị buộc tội, người đại diện của người bị buộc tội, người thân thích của người bị buộc tội. Mọi trường hợp thay đổi hoặc từ chối người bào chữa đều phải có sự đồng ý của người bị buộc tội và được lập biên bản để đưa vào hồ sơ vụ án, trừ trường hợp chỉ định người bào chữa cho người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa; người có nhược điểm về tâm thần hoặc là người dưới 18 tuổi.
2. Thủ tục thay đổi hoặc từ chối người bào chữa
Thủ tục đề nghị thay đổi hoặc từ chối người bào chữa cũng được quy định rõ ràng trong khoản 2 và khoản 3 Điều 77 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 để khắc phục trường hợp người thân thích của người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam mới thường bị từ chối không rõ lý do. Trường hợp người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam trong giai đoạn điều tra có đề nghị từ chối người bào chữa do người thân thích của họ nhờ thì Điều tra viên phải cùng người bào chữa đó trực tiếp gặp người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam để xác nhận việc từ chối. Trong trường hợp chỉ định người bào chữa quy định tại Điều 76 của Bộ luật TTHS 2015, người bị buộc tội và người đại diện hoặc người thân thích của họ vẫn có quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối người bào chữa. Trường hợp từ chối người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng lập biên bản ghi nhận việc từ chối người bào chữa của người bị buộc tội và chấm dứt việc chỉ định người bào chữa.
Trường hợp chỉ định người bào chữa:
Trong các trường hợp sau đây nếu người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ không mời người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chỉ định người bào chữa cho họ:
- a) Bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật hình sự quy định mức cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tù, tù chung thân, tử hình;
- b) Người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa; người có nhược điểm về tâm thần hoặc là người dưới 18 tuổi.
3. Trường hợp bị can, bị cáo yêu cầu hoặc từ chối người bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án tiến hành nghiên cứu và giải quyết vụ án, trong đó có việc tiến hành thủ tục bào chữa khi bị can, bị cáo khi họ nhờ người bào chữa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; bị can, bị cáo có thể nhờ người bào chữa ở bất cứ thời điểm nào nhưng không được gây cản trở cho việc giải quyết, xét xử vụ án; họ có thể nhờ sau khi khởi tố bị can, trong giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử, trước khi mở phiên tòa hoặc có thể tại phiên tòa. Sau khi đầy đủ thủ tục, Tòa án phải thông báo đăng ký bào chữa cho người bào chữa.
Ngoài ra đối với một số trường hợp chỉ định, Tòa án có yêu cầu Đoàn luật sư cử người bào chữa cho bị can, bị cáo; thông thường hoạt động này thực hiện trước khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử. Khi tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử Tòa án hỏi bị cáo về việc nhờ người khác bào chữa hay chấp nhận người bào chữa do Tòa án chỉ định. Trường hợp chấp nhận thì Tòa án tiến hành xét xử theo thủ tục, trường hợp bị cáo không chấp nhận thì họ có quyền nhờ người khác bào chữa và tiến hành thủ tục đăng ký bào chữa theo quy định chung. Tòa án phải thông báo bào chữa khi người bào chữa hoàn thiện thủ tục, tạo điều kiện cho họ nghiên cứu hồ sơ và tiến hành xét xử theo kế hoạch. Người bào chữa mà bị cáo nhờ phải có nghĩa vụ nghiên cứu nắm hồ sơ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp tốt nhất cho bị cáo.
Tuy nhiên, trong quá trình phiên tòa đang diễn ra xảy các tình huống sau:
- Bị cáo không nhờ người bào chữa hoặc từ chối người bào chữa ở các giai đoạn tố tụng, không nhờ người bào chữa khi Chủ tọa phiên tòa hỏi trong phần thủ tục bắt đầu phiên tòa nhưng trong phần tranh luận khi bị cáo thấy đuối lý và cần có nhiều nội dung cần nhờ người bào chữa để giúp đỡ về pháp luật, bị cáo có yêu cầu người bào chữa.
- Bị cáo muốn thay đổi người bào chữa do nhận thấy người bào chữa không đảm bảo được quyền và lợi ích của mình.
- Người đại diện hợp pháp của bị cáo muốn yêu cầu người bào chữa nhưng bị cáo lại từ chối.
Theo Điều 31 khoản 4 Hiến pháp 2013 thì “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa.”
Cũng theo điểm g khoản 2 Điều 61 BLTTHS 2015 thì bị cáo có quyền “Tự bào chữa, nhờ người bào chữa”. Theo đó, trong phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, bị cáo có quyền yêu cầu người bào chữa khi chưa có người bào chữa.
Tuy nhiên, nhiều phiên tòa diễn đang ra bị cáo thực hiện quyền yêu cầu bào chữa và yêu cầu của họ có được chấp nhận hay không?
Bởi Hiến pháp cũng quy định bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Đây là quyền bất khả xâm phạm, cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm tạo mọi điều kiện để bị cáo thực hiện quyền này.
HĐXX chấp nhận yêu cầu của bị cáo là có người bào chữa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân mình. Khi đó, HĐXX có thể hội ý nhanh và đưa ra quyết định chấp nhận yêu cầu của bị cáo hoặc phiên tòa sẽ tạm ngừng và sẽ làm thủ tục đăng ký bào chữa, đồng thời để người bào chữa nghiên cứu hồ sơ (nếu họ đảm bảo nghiên cứu được trong thời hạn ngày ngừng phiên tòa). Nếu việc này không thể được thực hiện ngay được thì HĐXX phải vào phòng nghị án họp bàn và quyết định hoãn phiên tòa; đồng thời tiến hành thủ tục đăng ký bào chữa, người bào chữa nghiên cứu hồ sơ và mở lại phiên tòa theo quy định.
Quyền bào chữa của bị cáo là quyền hiến định được ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật quy định. Quyền đó, được thực hiện ở bất cứ giai đoạn nào của tố tụng hình sự kể cả khi phiên tòa đang diễn ra. Tuy nhiên, để có căn cứ áp dụng thống nhất pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong quá trình cải cách tư pháp và hoàn thiện pháp luật, cơ quan có thẩm quyền, cần có hướng dẫn cụ thể về chế định này.
Nội dung bài viết:
Bình luận