Bản án là văn bản ghi nhận phán quyết của Tòa án sau khi xét xử một vụ án. Bản án đánh dấu sự kết thúc toàn bộ quá trình điều tra, truy tố, xét xử, cho nên nội dung của nó phải phản ánh những kết quả của phiên tòa và ý kiến phân tích, đánh giá của hội đồng xét xử. Bài viết dưới đây của chúng tôi sẽ phân tích rõ hơn về một số nội dung liên quan đến bản án và một số bản án về tranh chấp hợp đồng gửi giữ tài sản theo quy định của pháp luật hiện hành.
tranh chấp hợp đồng gửi giữ tài sản
1. Bản án là gì?
Bản án là văn bản ghi nhận phán quyết của Tòa án sau khi xét xử một vụ án. Bản án đánh dấu sự kết thúc toàn bộ quá trình điều tra, truy tố, xét xử, cho nên nội dung của nó phải phản ánh những kết quả của phiên tòa và ý kiến phân tích, đánh giá của hội đồng xét xử. Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có nhiệm vụ viết bản án.
2. Đặc điểm của bản án
Bản án là loại văn bản đặc trưng riêng và quan trọng nhất thể hiện thẩm quyền xét xử của Tòa án. Chỉ có Tòa án mới có thẩm quyền ban hành văn bản này theo trình tự tố tụng chặt chẽ được quy định trong pháp luật tố tụng.
Bản án là văn bản chính thức của Nhà nước trong quan hệ với cá nhân, cơ quan và tổ chức.
Bản án là một trong các văn bản tố tụng tư pháp với hình thức và bố cục được lập theo mẫu thống nhất theo quy định của các luật tố tụng và nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao.
Bản án một mặt vừa phải thể hiện các chứng cứ, tình tiết của vụ án và ý kiến của những người tham gia tố tụng, mặt khác cũng phải thể hiện quan điểm, kết luận của Tòa án về nội dung vụ án, về pháp luật áp dụng, đường lối xử lí, quyết định của Tòa án đối với các vấn đề cần giải quyết trong vụ án.
Bản án của Tòa án khi có hiệu lực pháp luật có giá trị thi hành, quyết định được tuyến trong bản án có tính chất mệnh lệnh của Nhà nước mà các cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan buộc phải tuân theo.
3. Hiệu lực của bản án sơ thẩm và phúc thẩm
Hiệu lực của bản án sơ thẩm và phúc thẩm sẽ dựa trên nhiều yếu tố khác nhau. Mỗi bản án thuộc các lĩnh vực luật khác nhau sẽ có hiệu lực khác nhau. Bản án giữa các cấp xét xử khác nhau cũng sẽ có hiệu lực khác nhau. Cụ thể như sau:
Hiệu lực của bản án dân sự theo Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015
– Cấp sơ thẩm: Bản án sơ thẩm hoặc những phần bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm thì có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị. (Khoản 2, Điều 282 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015)
Trong đó, thời hạn kháng cáo đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; đối với đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khởi kiện không có mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết. Đối với trường hợp đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khởi kiện đã tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt khi Tòa án tuyên án mà không có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày tuyên án. (Khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015)
Thời hạn kháng nghị đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm của Viện kiểm sát cùng cấp là 15 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 01 tháng, kể từ ngày tuyên án. Trường hợp Kiểm sát viên không tham gia phiên tòa thì thời hạn kháng nghị tính từ ngày Viện kiểm sát cùng cấp nhận được bản án. (Khoản 1 Điều 280 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015)
Đối với đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khởi kiện không có mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Như vậy, sau 30 ngày kể từ ngày tuyên án, nếu bản án không bị kháng cáo, kháng nghị thì bản án có hiệu lực pháp luật.
Bản án sơ thẩm của Tòa án cấp sơ thẩm hoặc những phần bản án sơ thẩm của Tòa án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì chưa được đưa ra thi hành, trừ trường hợp pháp luật quy định cho thi hành ngay theo Khoản 1 Điều 282 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.
Lưu ý: Đối với những bản án, quyết định sau đây của Tòa án cấp sơ thẩm được thi hành ngay mặc dù có thể bị kháng cáo, khiếu nại, kháng nghị, kiến nghị bao gồm: Bản án, quyết định về cấp dưỡng, trả công lao động, nhận người lao động trở lại làm việc, trả lương, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất sức lao động, trợ cấp mất việc làm, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tổn thất tinh thần của công dân; quyết định về tính hợp pháp của cuộc đình công;
– Cấp phúc thẩm: Bản án phúc thẩm phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. (Khoản 6 Điều 313 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015)
4. Một số bản án Bản án về tranh chấp hợp đồng gửi giữ tài sản
- Bản án 17/2019/DS-ST ngày 25/01/2019 về tranh chấp hợp đồng gửi giữ tài sản
+ Cấp xét xử: Sơ thẩm
+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh
+ Nội dung tóm tắt: Ngày 17/5/2013, ông Phạm Hoàng V đến uống cà phê tại quán cà phê Gia L và gửi xe mô tô hiệu SH cho nhân viên Công ty Gia L giữ, thẻ giữ xe số 020. Sau khi uống cà phê xong, ông V lấy xe thì phát hiện chiếc xe bị mất. Công ty Gia L thừa nhận trách nhiệm trong việc làm mất xe và cam kết bồi thường cho ông V 90.000.000 đồng. Tuy nhiên Công ty Gia L không thực hiện bồi thường. Ông V khởi kiện yêu cầu Công ty Gia L bồi thường cho ông giá trị còn lại của chiếc xe bị mất là 130.000.000 đồng.
- Bản án 12/2021/DS-PT ngày 29/12/2020 về tranh chấp hợp đồng gửi giữ tài sản
+ Cấp xét xử: Phúc thẩm
+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh
+ Nội dung tóm tắt: Tháng 9/2018, ông Dương Viết C mua khoai tây giống của HTX thôn L. Sau khi trồng và thu hoạch, ông mang 284kg khoai tây giống đến gửi kho lạnh nhà ông Nguyễn Kim T với giá gửi 2.400 đồng/kg. Đến ngày 20/9/2019 ông C ra kho nhà ông T lấy khoai giống về trồng và trả tiền phí gửi cho ông T. Ông C phát hiện toàn bộ số khoai của ông bị hỏng, củ khoai rắn cứng và đen bên trong không thể trồng được. Ông bảo với ông T nhưng ông T không giải quyết. Ông T khởi kiện yêu cầu ông T, bà D bồi thường cho ông giá trị 284kg khoai giống đã làm hỏng theo giá ông đã mua là 4.544.000 đồng và phí kho lạnh là 616.000 đồng.
- Bản án 73/2021/DS-PT ngày 17/06/2021 về tranh chấp hợp đồng gửi giữ tài sản
+ Cấp xét xử: Phúc thẩm
+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh An Giang
+ Nội dung tóm tắt: Ngày 27/3/2020 ông Nguyễn Văn Đ đi đồng và gửi cho bà Nguyễn Thị X số tiền 50.000.000 đồng. Khoảng 10 giờ 20 phút cùng ngày, Công an huyện C bắt tụ điểm đá gà, chơi tài xỉu tại nhà bà X. Ông Đ có hỏi bà X lấy lại số tiền 50.000.000 đồng thì bà X bảo là Công an vào bắt xòng tài xỉu nhà bà nên bà không biết ai lấy. Ông Đ khởi kiện yêu cầu bà X trả lại cho ông số tiền 50.000.000 đồng và không yêu cầu gì khác.
- Bản án 391/2020/DS-PT ngày 25/05/2020 về tranh chấp hợp đồng gửi giữ tài sản
+ Cấp xét xử: Phúc thẩm
+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh
+ Nội dung tóm tắt: Ngày 07/01/2017 ông Hoàng Trần P mượn của ông Vũ Đức T1 chiếc xe gắn máy hiệu Yamaha Exciter đến tiệm Internet do Công ty TNHH Công nghệ thông tin NT là chủ sở hữu để chơi game. Ông P gửi xe cho nhân viên gửi xe của tiệm Internet là ông N1 và nhận vé giữ xe số 0073967. Khoảng 15 giờ 30 phút cùng ngày, ông ra về đưa thẻ xe cho bảo vệ lấy xe. Lúc này không phải là ông N1 mà là một bảo vệ khác nhưng không tìm thấy xe. Không giải quyết được nên ông P khởi kiện yêu cầu Công ty NT bồi thường giá trị chiếc xe bị mất số tiền 40.000.000 đồng và hoàn trả lại cho ông chi phí địnhh giá tài sản là 1.500.000 đồng.
- Bản án 11/2020/KDTM-PT ngày 24/09/2020 về tranh chấp hợp đồng gửi giữ cà phê và vay tiền
+ Cấp xét xử: Phúc thẩm
+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk
+ Nội dung tóm tắt: Vợ chồng ông S, bà M cùng ông H có quan hệ mua bán cà phê với Công ty cà phê B theo phương thức: Công ty cho ông S, bà M và ông H vay tiền để mua cà phê. Sau khi vay tiền, ông S, bà M và ông H phải mua cà phê về nhập kho Công ty, khi nào giá cà phê bảo đảm có lãi, các bên sẽ thỏa thuận chốt giá cà phê. Ông S, bà M và ông H nhập kho gửi Công ty 12 phiếu số lượng 142.460,7 kg cà phê nhân xô. Năm 2006, vợ chồng ông S quyết định bán số cà phê trên cho Công ty nhưng Công ty báo số cà phê gửi tại Công ty đã chốt giá để trả nợ cho Công ty chỉ còn hơn 03 tấn. Vợ chồng ông S khởi kiện yêu cầu Công ty trả cho ông bà số cà phê nhân xô, ông bà đồng ý trả cho Công ty số tiền đã vay là 1.132.000.000đ cùng tiền lãi.
Đây là các thông tin về bản án và một số Bản án về tranh chấp hợp đồng gửi giữ tài sản, Công ty Luật ACC xin gửi đến các bạn. Chúc các bạn thành công.
Nội dung bài viết:
Bình luận