Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng và yêu cầu tuyên bố hợp đồng bảo lãnh thế chấp quyền sử dụng đất vô hiệu số 144/2021/DS-PT. Mời bạn đọc theo dõi bài viết chi tiết sau đây về bản án tuyên hợp đồng tín dụng vô hiệu.
Bản án tuyên hợp đồng tín dụng vô hiệu
1. Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng và yêu cầu tuyên bố hợp đồng bảo lãnh thế chấp quyền sử dụng đất vô hiệu số 144/2021/DS-PT
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 144/2021/DS-PT NGÀY 24/09/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG VÀ YÊU CẦU TUYÊN BỐ HỢP ĐỒNG BẢO LÃNH THẾ CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÔ HIỆU
Ngày 24 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 51/2021/TLPT-DS ngày 15/4/2021 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng và yêu cầu tuyên bố hợp đồng bảo lãnh thế chấp quyền sử dụng đất vô hiệu”. Do bản án dân sự sơ thẩm số: 06/2021/DS-ST ngày 02/3/2021 của Tòa án nhân dân huyện Cư Kuin bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 87/2021/QĐ-PT ngày 15/6/2021, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ngân hàng N; trụ sở: Đường L1, phường C, quận B, Thủ đô Hà Nội.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Đức A, chức vụ: Chủ tịch Hội đồng thành viên Ngân hàng N; Vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Bà Trần Thị Thu T, chức vụ: Giám đốc Phòng giao dịch T1; địa chỉ: Đường V1, thành phố B1, tỉnh Đắk Lắk (Văn bản ủy quyền ngày 22/10/2020); Có mặt.
2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn P, sinh năm 1975; địa chỉ: Thôn F, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; Có mặt.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Ủy ban nhân dân xã K1, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.
Người đại diện pháp luật: Ông Nguyễn Văn K2, chức vụ: Chủ tịch UBND xã K1; địa chỉ: Thôn D, xã K1, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; Có đơn xin xét xử vắng mặt.
3.2. Bà Nguyễn Thị Mai L, sinh năm 1978; Vắng mặt.
3.3. Bà Trần Thị Thanh M, sinh năm 1954; Vắng mặt.
Cùng địa chỉ: Thôn F, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.
3.4. Bà Trần Thị H, sinh năm 1957; địa chỉ: Đường Đ1, phường L2, thành phố B1, tỉnh Đắk Lắk; Vắng mặt.
3.5. Ông Trần Việt V, sinh năm 1961; Vắng mặt.
3.6. Ông Trần Thanh L3, sinh năm 1968; Vắng mặt.
3.7. Bà Trần Thị L4, sinh năm 1966; Vắng mặt.
Cùng địa chỉ: Thôn R, xã K1, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.
Người đại diện ủy quyền của bà Trần Thị Thanh M, bà Trần Thị H, ông Trần Việt V, ông Trần Thanh L3, bà Trần Thị L4: Ông Lê Thành N1; địa chỉ: Đường Y, phường T2, thành phố B1, tỉnh Đắk Lắk (Văn bản ủy quyền ngày 22/4/2019, ngày 16/11/2019, ngày 18/11/2019 và ngày 02/6/2020); Có mặt.
3.8. Bà Trần Thị P1, sinh năm 1964; Vắng mặt.
3.9. Ông Trần Đình K3, sinh năm 1956; Vắng mặt.
Cùng địa chỉ: Thôn R, xã K1, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.
4. Người kháng cáo: Nguyên đơn Ngân hàng N và bị đơn ông Nguyễn Văn P.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án, người đại diện ủy quyền của nguyên đơn Ngân hàng N có đại diện ủy quyền là bà Trần Thị Thu T trình bày:
Ngày 29/11/2013, Ngân hàng N - Chi nhánh huyện K, Đắk Lắk - Phòng giao dịch T1 ký Hợp đồng tín dụng số 5229 LVA201304749 với ông Nguyễn Văn P vay số tiền gốc 400.000.000 đồng; lãi suất trong hạn 13%/năm; lãi quá hạn bằng 150% lãi suất vay đã thỏa thuận; thời hạn vay 12 tháng, hạn trả nợ ngày 28/11/2014; mục đích vay mua đồ dùng sinh hoạt gia đình và sửa nhà ở.
Để đảm bảo cho khoản vay trên, bà Phạm Thị H1 (Hiện đã chết) đã dùng tài sản của mình là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất của thửa số 14166, tờ bản đồ số 41 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (Viết tắt là GCNQSDĐ) số B 145570 do UBND huyện A1 cấp ngày 18/3/1993 đứng tên ông Trần N2, ngày 23/3/2009 được Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất huyện K cập nhật, thay đổi chủ sở hữu cho bà H1 do được thừa kế, đất tọa lạc tại thôn R, xã K1, huyện K, tỉnh Đắk Lắk để thế chấp, bảo lãnh cho ông P vay khoản tiền nói trên theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất của bên thứ ba số 106/BL ký ngày 27/11/2013 và được chứng thực ngày 28/11/2013 tại Ủy ban nhân dân xã K1, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.
Quá trình thực hiện hợp đồng cho đến nay ông P mới trả cho Ngân hàng 122.000.000 đồng tiền gốc và 19.543.334 đồng tiền lãi; số tiền còn lại ông P không trả cho Ngân hàng thêm khoản nào dù Ngân hàng đã nhiều lần yêu cầu ông P thanh toán nợ vay đã quá hạn. Do đó, Ngân hàng yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Nguyễn Văn P phải trả cho Ngân hàng tổng số tiền 667.007.847 đồng, trong đó gồm nợ gốc 278.000.000 đồng, nợ lãi tính đến ngày xét xử sơ thẩm ngày 02/3/2021 là 389.007.847 đồng và tiền lãi phát sinh theo Hợp đồng tín dụng số 5229 LVA201304749 ngày 29/11/2013 kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến ngày ông P trả hết nợ cho Ngân hàng.
Đối với tài sản thế chấp: Trong trường hợp ông P không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ thì Ngân hàng có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý tài sản thế chấp theo hợp đồng thế chấp số 106/BL ký ngày 27/11/2013 để thu hồi nợ và nếu số tiền thu được từ việc xử lý tài sản bảo đảm không đủ trả nợ thì Ngân hàng có quyền yêu cầu cơ quan Thi hành án dân sự xử lý bất kỳ tài sản nào của ông P để thu hồi nợ theo quy định.
Bị đơn ông Nguyễn Văn P trình bày:
Ngày 29/11/2013, ông Nguyễn Văn P có ký Hợp đồng tín dụng số 5229 LVA201304749 vay của Ngân hàng N - Chi nhánh huyện K, Đắk Lắk - Phòng giao dịch T1 số tiền 400.000.000 đồng, thời hạn vay 12 tháng, lãi suất 13%/năm nhưng vay giùm cho vợ chồng ông Trần Đình K3 và bà Nguyễn Thị L5. Đến hạn trả nợ, ông P đã trả cho Ngân hàng số tiền gốc 119.000.000 đồng và tiền lãi 17.918.334 đồng. Số tiền gốc và lãi còn lại ông P chưa trả cho Ngân hàng.
Nay Ngân hàng khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết buộc ông P phải trả cho Ngân hàng tổng số tiền tính đến ngày 31/8/2018 là 536.818.695 đồng. Trong đó: Nợ gốc 281.000.000 đồng và nợ lãi tính từ ngày 01/4/2014 đến ngày 31/8/2018 là 255.818.695 đồng thì ông P đồng ý với điều kiện ông K3 và bà L5 phải trả lại cho ông P số tiền này.
Để đảm bảo cho khoản vay trên, bà Phạm Thị H1 đã dùng tài sản của mình là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất của thửa số 14166, tờ bản đồ số 41 theo GCNQSDĐ số B 145570 do UBND huyện A1 cấp ngày 18/3/1993 đứng tên ông Trần N2, ngày 23/3/2009 được Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất huyện K cập nhật, thay đổi chủ sở hữu cho bà H1 do được thừa kế để thế chấp, bảo lãnh cho ông P vay khoản tiền nói trên theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất của bên thứ ba số 106/BL ký ngày 27/11/2013 và được chứng thực ngày 28/11/2013 tại Ủy ban nhân dân xã K1. Nếu ông P không trả được nợ thì ông P đồng ý xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ cho Ngân hàng.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Mai L trình bày: Bà L là vợ của ông Nguyễn Văn P. Bà L thống nhất với lời khai của ông P như trên. Nay Ngân hàng khởi kiện yêu cầu ông P phải trả nợ cho Ngân hàng thì bà đồng ý trả cùng ông P nhưng với điều kiện bà Trần Thị L4 (con gái của bà Phạm Thị H1) cùng kết hợp với bà và ông P để trả nợ cho Ngân hàng. Nếu ông P không trả được nợ thì bà đồng ý xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ cho Ngân hàng.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị Thanh M, bà Trần Thị H, ông Trần Việt V, ông Trần Thanh L3, bà Trần Thị L4 có người đại diện ủy quyền là ông Lê Thành N1 trình bày:
Ông Trần N2 (sinh năm 1920, mất năm 1997) và bà Phạm Thị H1 (sinh năm 1922, mất năm 2014) có 07 người con gồm: Bà Trần Thị Thanh M, ông Trần Đình K3, bà Trần Thị H, ông Trần Việt V, bà Trần Thị P1, bà Trần Thị L4, ông Trần Thanh L3. Khi còn sống, ông N2, bà H1 được UBND huyện A1 cấp GCNQSDĐ số B 145570 ngày 18/3/1993, diện tích 980m2, thửa đất số 14166, tờ bản đồ số 41, tọa lạc tại thôn R, xã K1, huyện K đứng tên ông Trần N2. Năm 1997 ông N2 chết, thửa đất trên do bà Phạm Thị H1 và các con tiếp tục sử dụng để ở, chưa chia thừa kế. Năm 2014, bà H1 chết nên nhà đất này tạm thời giao cho ông Trần Thanh L3, bà Trần Thị L4, bà Trần Thị P1 để ở, còn các anh em trong gia đình chưa chia thừa kế. Việc bà H1 mang GCNQSDĐ đi bảo lãnh thế chấp cho ông P vay tiền tại Ngân hàng vào năm 2013 thì bà M, bà H, ông V, bà L4, ông L3 không biết và không ký vào Hợp đồng thế chấp. Nay Ngân hàng khởi kiện yêu cầu ông P phải trả nợ gốc và lãi theo Hợp đồng tín dụng số 5229 LVA201304749 ngày 29/11/2013 thì bà M, bà H, ông V, bà L4 và ông L3 không có ý kiến gì, đề nghị Tòa án giải quyết theo pháp luật. Đối với việc Ngân hàng yêu cầu xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng diện tích đất 980m2, tờ bản đồ số 41, thửa đất số 14166 theo GCNQSDĐ số B 145570 trong trường hợp ông Nguyễn Văn P không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ, thì bà M, bà H, ông V, bà L4 và ông L3 không đồng ý vì những lý do sau:
- Thứ nhất, việc bà Hợi đứng tên trên GCNQSDĐ số B 145570 là không đúng pháp luật và xâm phạm đến quyền thừa kế di sản của ông Trần N2 để lại cho các đồng thừa kế. Tại văn bản phân chia tài sản thừa kế ngày 10/3/2009 được UBND xã K1, huyện K chứng thực ngày 13/3/2009 chỉ có các bà Phạm Thị H1, ông Trần Đình K3, bà Trần Thị L4 và ông Trần Thanh L3 lập. Trong khi hàng thừa kế thứ nhất của ông Trần N2 còn có bà Trần Thị H, bà Trần Thị P1, bà Trần Thị Thanh M và ông Trần Việt V. Do đó, việc Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất huyện K căn cứ vào văn bản phân chia tài sản thừa kế trên để xác nhận biến động nhận thừa kế cho bà Phạm Thị H1 đứng tên trên GCNQSDĐ nói trên là trái pháp luật, bỏ sót người thừa kế theo quy định tại Điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005. Bà H1 không có quyền thế chấp đối với quyền sử dụng đất này nên dẫn đến Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất của bên thứ ba số 106/BL ngày 27/11/2013 giữa bên nhận thế chấp là Ngân hàng N - Chi nhánh huyện K – Phòng giao dịch T1 với bên thế chấp là bà Phạm Thị H1 và bên vay vốn là ông Nguyễn Văn P vô hiệu. Thời điểm ký hợp đồng thế chấp là ngày 27/11/2013, áp dụng quy định tại khoản 2 Điều 138 của Bộ luật dân sự năm 2005 thì giao dịch thế chấp giữa ngân hàng với bà H1 dù có ngay tình cũng vô hiệu.
- Thứ hai, bà Phạm Thị H1 sinh năm 1922, mất năm 2014. Thời điểm ký kết hợp đồng thế chấp số 106/BL là ngày 27/11/2013, lúc này bà H1 đã 91 tuổi rất già yếu và đến năm 2014 bà H1 mất, vì già yếu nên không thể coi lúc điểm chỉ vào hợp đồng thế chấp là minh mẫn và tự nguyện. Việc bà H1 có điểm chỉ vào hợp đồng thế chấp hay không thì bà M, bà H, ông V, bà L4 và ông L3 không biết được, không có ai chứng kiến. Hơn nữa, giữa bà H1 và ông Nguyễn Văn P không có quan hệ họ hàng gì với nhau, bà Phạm Thị H1 lại là người không biết chữ, từ lúc bà H1 còn sống đến khi mất, bà M, bà H, ông V, bà L4 và ông L3 chưa bao giờ thấy bà H1 đọc, viết hay ký tên được vào bất kỳ văn bản nào. Vậy rõ ràng không có căn cứ để chứng minh bà H1 đọc hiểu nội dung của hợp đồng thế chấp.
Vì vậy, bà M, bà H, ông V, bà L4 và ông L3 có đơn đề nghị Tòa án tuyên bố hợp đồng thế chấp số 106/BL vô hiệu và không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng đối với yêu cầu xử lý tài sản thế chấp. Về yêu cầu tuyên bố văn bản phân chia tài sản thừa kế ngày 10/3/2009 được UBND xã K1, huyện K chứng thực ngày 13/3/2009 vô hiệu và việc phân chia di sản thừa kế liên quan đến thửa đất số 14166, tờ bản đồ số 41 thì bà M, bà H, ông V, bà L4 và ông L3 không yêu cầu giải quyết trong cùng vụ án này mà sẽ khởi kiện bằng một vụ án dân sự khác.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị P1 trình bày:
Bà P1 là con đẻ của ông Trần N2 và bà Phạm Thị H1. Bà P1 thống nhất với lời khai của các anh chị em của bà là bà Trần Thị Thanh M, bà Trần Thị H, ông Trần Việt V, ông Trần Thanh L3, bà Trần Thị L4 như trên. Việc bà H1 đứng tên trong GCNQSDĐ và mang đi bảo lãnh thế chấp cho ông P vay tiền tại Ngân hàng vào năm 2013 thì bà P1 không được biết. Nay Ngân hàng yêu cầu xử lý tài sản thế chấp thì bà P1 cũng như các anh chị em của bà P1 đều không đồng ý vì văn bản phân chia tài sản thừa kế không đúng quy định của pháp luật, thời điểm giao kết hợp đồng thế chấp bà H1 đã 91 tuổi rất già yếu nên không minh mẫn và tự nguyện để giao kết hợp đồng. Vì vậy, bà P1 có yêu cầu độc lập yêu cầu Tòa án tuyên hợp bố đồng thế chấp số 106/BL nêu trên vô hiệu và không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng.
Hiện nay, do bà P1 thường xuyên đau ốm, sức khỏe không tốt phải đi lại chữa bệnh nhiều nên không thể tiếp tục tham gia tố tụng. Vì vậy, bà P1 đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt.
Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Đình K3: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt Thông báo về việc thụ lý vụ án, Giấy triệu tập, Thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa và nhiều văn bản tố tụng khác nhưng ông K3 vẫn vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm nên Tòa án không lấy được lời khai của ông Trần Đình K3.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ủy ban nhân dân xã K1 trình bày: Ngày 28/11/2013, UBND xã K1 có nhận hồ sơ đề nghị chứng thực Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của bên thứ ba số 106/BL ngày 27/11/2013 đối với thửa đất số 14166, tờ bản đồ số 41, diện tích 980m2 giữa bên nhận thế chấp là Ngân hàng N - Chi nhánh huyện K – Phòng giao dịch T1 với bên thế chấp là bà Phạm Thị H1, bên vay vốn là ông Nguyễn Văn P. Sau khi kiểm tra tính pháp lý của hợp đồng và giấy tờ tùy thân của các bên, xét thấy các bên tự nguyện thỏa thuận giao kết hợp đồng và tại thời điểm chứng thực các bên có đầy đủ năng lực hành vi dân sự phù hợp với quy định của pháp luật, không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội. UBND xã đã tiếp nhận hồ sơ theo đúng thẩm quyền và thực hiện cho các bên ký, điểm chỉ trực tiếp vào các hợp đồng tại bộ phận một cửa. Về phía bà Phạm Thị H1 do tuổi cao, sức yếu nên đã cho bà điểm chỉ vào hợp đồng và nhờ người khác ghi tên cho bà, về phía Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện K – Phòng giao dịch T1, người đại diện là ông Trần Văn Z, chức vụ Giám đốc Phòng giao dịch đã đăng ký mẫu chữ ký tại UBND xã nên không có mặt, về phía bà Trần Thị L4 và ông Nguyễn Văn P có mặt tại UBND xã và đã ký trực tiếp vào hợp đồng thế chấp, sau đó UBND xã đã chứng thực Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của bên thứ ba số 106/BL ngày 27/11/2013 nói trên. UBND xã đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Nay bà M, bà H, ông V, bà L4, ông L3 và bà P1 yêu cầu Tòa án tuyên bố Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của bên thứ ba giữa số 106/BL ngày 27/11/2013 nói trên vô hiệu thì UBND xã K1 đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Do bận nhiều công việc nên UBND xã K1 đề nghị Tòa án giải quyết và xét xử vắng mặt.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 06/2021/DS-ST ngày 02/3/2021 của Tòa án nhân dân huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:
Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 144, Điều 147, Điều 157, Điều 161, Điều 227, Điều 235, Điều 266 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; các Điều 137, 138, 471, 474, 674, 675, 676 của Bộ luật dân sự năm 2005; Điều 130 Luật đất đai năm 2003; Điều 91, Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Thông tư số 12/2010/TT-NHNN ngày 14/4/2010 hướng dẫn Tổ chức tín dụng cho vay bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng theo lãi suất thỏa thuận; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng N. Buộc ông Nguyễn Văn P phải có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng N số tiền 667.007.847 đồng, trong đó gồm 278.000.000 đồng tiền gốc và 389.007.847 đồng, tiền lãi phát sinh tính đến ngày xét xử sơ thẩm là ngày 02/3/2021.
Tiếp tục tính lãi suất phát sinh theo Hợp đồng tín dụng số 5229 LVA201304749 ngày 29/11/2013 cho đến khi ông Nguyễn Văn P trả xong nợ.
2. Không chấp nhận một phần khởi kiện của Ngân hàng N về yêu cầu xử lý tài sản thế chấp theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất của bên thứ ba số 106/BL ngày 27/11/2013 giữa bên nhận thế chấp Ngân hàng N với bên thế chấp là bà Phạm Thị H1, bên vay vốn là ông Nguyễn Văn P.
3. Chấp nhận yêu cầu độc lập của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị Thanh M, bà Trần Thị H, ông Trần Việt V, bà Trần Thị P1, bà Trần Thị L4, ông Trần Thanh L3.
Tuyên bố Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất của bên thứ ba số 106/BL ngày 27/11/2013, được chứng thực ngày 28/11/2013 tại Ủy ban nhân dân xã K1, huyện K, tỉnh Đắk Lắk vô hiệu. Ngân hàng N có nghĩa vụ trả cho bà Trần Thị Thanh M, bà Trần Thị H, ông Trần Việt V, bà Trần Thị P1, bà Trần Thị L4, ông Trần Thanh L3 và ông Trần Đình K3 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số B 145570 do UBND huyện A1, tỉnh Đắk Lắk cấp ngày 18/3/1993 mang tên ông Trần N2 và được Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất huyện K chỉnh lý biến động mang tên bà Phạm Thị H1 vào ngày 23/3/2009.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí và quyền yêu cầu thi hành án, quyền kháng cáo cho các đương sự theo quy định pháp luật.
Ngày 17/3/2021, nguyên đơn Ngân hàng N có đơn kháng cáo một phần bản án sơ thẩm với nội dung: Đề nghị Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận đơn khởi kiện của Ngân hàng về yêu cầu xử lý tài sản thế chấp theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất của bên thứ ba số 106/BL ngày 27/11/2013, giữa bên nhận thế chấp Ngân hàng N với bên thế chấp là bà Phạm Thị Hợi, bên vay vốn là ông Nguyễn Văn P; không chấp nhận yêu cầu độc lập của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị Thanh M, bà Trần Thị H, ông Trần Việt V, bà Trần Thị P1, bà Trần Thị L4, ông Trần Thanh L3 về việc tuyên bố Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất của bên thứ ba số 106/BL ngày 27/11/2013 vô hiệu.
Ngày 17/3/2021, bị đơn ông Nguyễn Văn P có đơn kháng cáo một phần bản án sơ thẩm với nội dung: Đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét miễn giảm tiền lãi phát sinh và tiền án phí sơ thẩm cho ông.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn Ngân hàng N giữ nguyên nội dung đơn khởi kiện và đơn kháng cáo, bị đơn ông Nguyễn Văn P giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập vẫn giữ nguyên nội dung khởi kiện yêu cầu độc lập.
Tại phần tranh luận, đại diện Ngân hàng N đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận đơn kháng cáo của Ngân hàng, không chấp nhận đơn kháng cáo của bị đơn.
Tại phần tranh luận bị đơn đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn kháng cáo của bị đơn.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk phát biểu:
Về tố tụng: Trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và các đương sự đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Qua phân tích đánh giá các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và tranh tụng tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự – Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn Ngân hàng N và bị đơn ông Nguyễn Văn P, giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số: 06/2021/DS-ST ngày 02/3/2021 của Tòa án nhân dân huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ các tài liệu chứng cứ, lời trình bày của các đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Ngày 02/3/2021, Tòa án nhân dân huyện Cư Kuin xét xử sơ thẩm. Cùng ngày 17/3/2021, nguyên đơn Ngân hàng N và bị đơn ông Nguyễn Văn P có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm. Xét kháng cáo của nguyên đơn và bị đơn là trong hạn luật định và đã nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[1.2] Tại phiên tòa phúc thẩm, những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan gồm: Đại diện Ủy ban nhân dân xã K1, bà Nguyễn Thị Mai L, bà Trần Thị P1, ông Trần Đình K3 vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai mặc dù đã được triệu tập hợp lệ. Do đó, Hội đồng xét xử hội ý và quyết định xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định tại khoản 2 Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung:
[2.1] Xét kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Văn P:
Ngày 29/11/2013, ông P có ký Hợp đồng tín dụng số 5229 LVA201304749 vay của Ngân hàng N - Phòng giao dịch T1 số tiền 400.000.000 đồng, thời hạn vay 12 tháng, lãi suất 13%/năm, lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn. Tài sản bảo đảm cho khoản vay nói trên là quyền sử dụng đất, đối với thửa đất số: 141, tờ bản đồ số 41 đã được UBND huyện A1, tỉnh Đắk Lắk cấp GCNQSD đát số: B 145570 ngày 18/3/1993 mang tên ông Trần N2 và được Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất huyện K chỉnh lý biến động mang tên bà Phạm Thị H1 vào ngày 23/3/2009, tại Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất của bên thứ ba số: 106/BL ngày 27/11/2013, được ký kết giữa bên thế chấp là bà Phạm Thị H1, bên nhận thế chấp là Ngân hàng N, được chứng thực ngày 28/11/2013 tại Ủy ban nhân dân xã K1, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.
Quá trình thực hiện Hợp đồng, ông P đã trả cho Ngân hàng 122.000.000 đồng nợ gốc và 19.543.334 đồng nợ lãi; ông còn nợ Ngân hàng 278.000.000 đồng nợ gốc và nợ lãi phát sinh theo thoả thuận tại hợp đồng tín dụng.
Do ông P vi phạm nghĩa vụ thanh toán, do đó Ngân hàng khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc ông P trả cho Ngân hàng toàn bộ nợ gốc và lãi suất phát sinh theo hợp đồng. Trong đó:
Lãi trong hạn tính từ ngày vay 29/11/2013 đến ngày 29/11/2014 là: 400.000.000 đồng x 365 ngày x 13%/ năm = 52.722.222 đồng.
Lãi quá hạn tính từ ngày vi phạm nghĩa vụ thanh toán (ngày 30/11/2014) đến ngày xét xử sơ thẩm (Ngày 02/3/2021) x 19,50%/năm/dư nợ gốc là 336.285.625 đồng, tổng số nợ lãi bị đơn phải trả cho nguyên đơn là 408.551.181 đồng. Bị đơn đã trả cho nguyên đơn 19.543.334 đồng nợ lãi, nên bị đơn còn phải trả cho nguyên đơn 389.007.847 đồng nợ lãi.
Nhận thấy, quá trình thực hiện hợp đồng, ông P vi phạm nghĩa vụ thanh toán, do đó Ngân hàng khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc ông P trả cho Ngân hàng số nợ 667.007.847 đồng, trong đó 278.000.000 đồng nợ gốc và 389.007.847 đồng nợ lãi như đã nêu trên là có căn cứ, Toà án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng buộc ông P trả cho Ngân hàng 278.000.000 đồng nợ gốc và 389.007.847 đồng nợ lãi là phù hợp.
Đối với kháng cáo xin được miễn giảm tiền lãi suất phát sinh:
Như đã phân tích ở trên, do vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên ông P còn nợ Ngân hàng số nợ gốc là 278.000. 00 đồng, nợ lãi là 389.007.847 đồng. Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện ủy quyền của Ngân hàng N không đồng ý việc miễn giảm 389.007.847 đồng nợ lãi cho ông P, mà cho rằng việc giảm lãi cho ông P sẽ được thực hiện trong quá trình thi hành án theo quy định của Ngân hàng; đồng thời yêu cầu buộc ông P phải có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng N số tiền 667.007.847 đồng, trong đó gồm 278.000.000 đồng nợ gốc và 389.007.847 đồng nợ lãi. Do đó, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị đơn.
Đối với kháng cáo xin miễn giảm số tiền án phí dân sự sơ thẩm: Xét thấy, do yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng được chấp nhận nên ông P phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm theo quy định là 30.680.000 đồng. Ông P không thuộc trường hợp được miễn giảm tiền án phí theo quy định tại Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của ông P.
[2.2] Xét kháng cáo của Ngân hàng N, Hội đồng xét xử xét thấy:
Nhận thấy, thửa đất số 14166, tờ bản đồ số 41 theo GCNQSDĐ số B 145570 thuộc quyền sử dụng của ông Trần N2. Năm 1997 ông Trần N2 chết không để lại di chúc; cũng chưa được chia theo quy định của pháp luật. Sau khi ông N2 chết bà H1 cùng các con chung của bà H1 và ông N2 gồm: Bà M, bà H, ông K3, ông V, ông L3, bà P1 và bà L4 sử dụng. Ngày 10/3/2009, bà H1, ông L3, bà L4 và ông K3 lập Văn bản phân chia tài sản thừa kế để quyền sử dụng thửa đất trên cho bà H1 sử dụng, mà không có ý kiến và không được sự đồng ý của bà M, ông V, bà P1 và bà H là những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông N2, là không phù hợp. Song, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện K đã căn cứ vào Văn bản phân chia tài sản thừa kế nói trên để chỉnh lý biến động thay đổi người sử dụng đất đối với thửa đất nói trên mang tên bà H1.
Sau khi đăng ký biến động quyền sử dụng đất, bà H1 đã dùng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất đối với thửa đất nói trên ký Hợp đồng thế chấp tài sản số: 106/BL ngày 27/11/2013, để đảm bảo cho ông P vay Ngân hàng N số tiền 400.000.000 đồng, tại Hợp đồng tín dụng số: 5229 LVA201304749 được ký kết giữa Ngân hàng N và ông P.
Như vậy, mặc dù bà H1 đã được đăng ký biến động quyền sử dụng đất sang tên bà, tuy nhiên, việc bà H1 đăng ký biến động quyền sử dụng đất sang tên bà không được sự đồng ý của các đồng thừa kế còn lại. Do đó, bà H1 không có toàn quyền sử dụng thửa đất số 14166, tờ bản đồ số 41. Song, bà H1 đã dùng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất của thửa số nói trên để thế chấp, đảm bảo cho khoản vay 400.000.000 đồng tại Hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng N với ông P là không đúng quy định của pháp luật, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của những người ở hàng thừa kế thứ nhất của ông N2.
Theo lời khai của các con bà H1 và tại biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 23/10/2020 của Toà án nhân dân huyện Cư Kuin thì thửa đất số: 14166, tờ bản đồ số 41 và các tài sản công trình trên đất đang do ông Trần Thanh L3, bà Trần Thị P1 và bà Trần Thị L4 quản lý sử dụng nhưng hợp đồng thế chấp chỉ có bà H1 điểm chỉ và bà L4 ký kết. Theo kết luận giám định kỹ thuật hình sự số: 151/PC09 ngày 10/9/2020 kết luận chữ viết có nội dung “Trần Thị L4” tại mục “Người đồng sở hữu – BÊN THẾ CHẤP” trong hợp đồng thế chấp không phải do bà L4 viết ra. Chữ viết có nội dung “Phạm Thị H1” dưới mục “Chủ hộ - BÊN THẾ CHẤP” và chữ viết có nội dung “Trần Thị L4” tại mục “Người đồng sở hữu – BÊN THẾ CHẤP” do cùng một người viết ra. Theo lời khai của các con bà H1 và xác nhận của UBND xã K1 thì bà H1 là người không biết chữ nên có cơ sở xác định chữ viết “Phạm Thị H1” và chữ viết “Trần Thị L4” trong hợp đồng thế chấp là do người khác viết thay mà không phải do bà H1 hoặc bà L4 viết ra. Đối với dấu vân tay trong hợp đồng thế chấp do mờ nhòe, không rõ đặc điểm và không đủ cơ sở để kết luận giám định nên không có căn cứ để kết luận có phải do bà H1 điểm chỉ hay không.
Hợp đồng thế chấp chỉ có điểm chỉ và ghi tên Phạm Thị H1 tại trang 04 với tư cách chủ hộ, từng trang của Hợp đồng không có chữ ký tắt (điểm chỉ) của các bên tham gia ký kết hợp đồng, không có chữ ký tắt của người thực hiện chứng thực là không đúng quy định của pháp luật, vi phạm về hình thức của hợp đồng.
Ngoài ra, theo xác nhận của UBND xã K1 và người đại diện uỷ quyền của nguyên đơn thì đại diện của Ngân hàng là ông Trần Văn Z không đi cùng bà H1, ông P và bà L4 đến UBND xã K1 để chứng thực hợp đồng thế chấp nói trên, nhưng UBND xã K1 vẫn chứng thực nội dung các bên tự nguyện thỏa thuận giao kết hợp đồng là không có cơ sở. Tại phiên toà đại diện Ngân hàng cho rằng ông Z đã đăng ký chữ ký mẫu, nên không cần có mặt để làm thủ tục công chứng là không phù hợp quy định của pháp luật.
Do đó, cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện có người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập, huỷ Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất ký kết giữa Ngân hàng N và bà Phạm Thị H1 số: 106/BL ký ngày 27/11/2013 và được chứng thực ngày 28/11/2013 tại Ủy ban nhân dân xã K1, huyện K bị vô hiệu, đồng thời buộc Ngân hàng trả cho bà Trần Thị Thanh M, bà Trần Thị H, ông Trần Việt V, bà Trần Thị P1, bà Trần Thị L4, ông Trần Thanh L3 và ông Trần Đình K3 GCNQSDĐ số B 145570 do UBND huyện A1, tỉnh Đắk Lắk cấp ngày 18/3/1993 mang tên ông Trần N2 và được Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất huyện K chỉnh lý biến động mang tên bà Phạm Thị H1 vào ngày 23/3/2009, không chấp nhận yêu cầu xử lý tài sản thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của bên thứ ba 106/BL ngày 27/11/2013 giữa bên nhận thế chấp Ngân hàng N với bên thế chấp là bà Phạm Thị H1, bên vay vốn là ông Nguyễn Văn P là có căn cứ.
Do đó kháng cáo của Ngân hàng không có cơ sở để chấp nhận.
Xét quan điểm của Ngân hàng N và quan điểm của bị đơn tại phần tranh luận là không có căn cứ để chấp nhận.
Xét quan điểm của Kiểm sát viên tại phiên toà đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, bị đơn giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số: 06/2021/DS-ST ngày 02/3/2021 của Tòa án nhân dân huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk là có căn cứ cần chấp nhận.
[3] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên nguyên đơn Ngân hàng N phải chịu án phí dân sự phúc thẩm, được khấu trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số AA/2019/0017572 ngày 19/3/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện K, tỉnh Đắk Lắk.
Ông Nguyễn Văn P phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự phúc thẩm, được khấu trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 60AA/2021/0001760 ngày 02/4/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện K, tỉnh Đắk Lắk.
[4] Các quyết định của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
[1] Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự;
Không chấp nhận đơn kháng cáo của nguyên đơn Ngân hàng N và bị đơn ông Nguyễn Văn P.
Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số: 06/2021/DS-ST ngày 02/3/2021 của Tòa án nhân dân huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk.
[2] Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 144, Điều 147, Điều 157, Điều 161, Điều 227, Điều 235, Điều 266 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; các Điều 137, 138, 471, 474, 674, 675, 676 của Bộ luật dân sự năm 2005; Điều 130 Luật đất đai năm 2003; Điều 91, Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Thông tư số 12/2010/TT-NHNN ngày 14/4/2010 hướng dẫn Tổ chức tín dụng cho vay bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng theo lãi suất thỏa thuận; Điều 26 và khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
[2.1] Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng N.
Buộc ông Nguyễn Văn P phải có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng N số tiền 667.007.847 đồng, trong đó gồm 278.000.000 đồng tiền gốc và 389.007.847 đồng tiền lãi phát sinh tính đến ngày xét xử sơ thẩm là ngày 02/3/2021.
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án trên số dư nợ gốc, theo mức lãi suất các bên thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng số: 5229 LVA201304749 ngày 29/11/2013.
[2.2] Không chấp nhận một phần khởi kiện của Ngân hàng N về yêu cầu xử lý tài sản thế chấp theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất của bên thứ ba số: 106/BL ngày 27/11/2013 giữa bên nhận thế chấp Ngân hàng N với bên thế chấp là bà Phạm Thị H1, bên vay vốn là ông Nguyễn Văn P.
[2.3] Chấp nhận yêu cầu độc lập của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị Thanh M, bà Trần Thị H, ông Trần Việt V, bà Trần Thị P1, bà Trần Thị L4, ông Trần Thanh L3.
Tuyên bố Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất của bên thứ ba số: 106/BL ngày 27/11/2013, được chứng thực ngày 28/11/2013 tại Ủy ban nhân dân xã K1, huyện K, tỉnh Đắk Lắk vô hiệu. Ngân hàng N có nghĩa vụ trả cho bà Trần Thị Thanh M, bà Trần Thị H, ông Trần Việt V, bà Trần Thị P1, bà Trần Thị L4, ông Trần Thanh L3 và ông Trần Đình K3 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số B 145570 do UBND huyện A1, tỉnh Đắk Lắk cấp ngày 18/3/1993 mang tên ông Trần N2 và được Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất huyện K chỉnh lý biến động mang tên bà Phạm Thị H1 vào ngày 23/3/2009.
[3] Về chi phí tố tụng: Ngân hàng N phải chịu 6.040.000 đồng tiền chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và chi phí giám định, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng đã nộp và đã chi phí xong.
[4] Về án phí:
[4.1] Án phí dân sự sơ thẩm:
Ngân hàng N phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm, được khấu trừ vào 12.736.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số AA/2017/0007316 ngày 14/01/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Ngân hàng N được nhận lại 12.436.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Ông Nguyễn Văn P phải chịu 30.680.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Hoàn trả cho ông Trần Việt V, ông Trần Thanh L3, bà Trần Thị L4 và bà Trần Thị P1 mỗi người 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp theo các biên lai thu số AA/2019/0017500, số AA/2019/0017501, số AA/2019/0017502 và số AA/2019/0017503 cùng ngày 11/01/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện K, tỉnh Đắk Lắk.
[4.2] Án phí dân sự phúc thẩm:
Ngân hàng N phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự phúc thẩm, được khấu trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số AA/2019/0017572 ngày 19/3/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện K, tỉnh Đắk Lắk.
Ông Nguyễn Văn P phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự phúc thẩm, được khấu trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 60AA/2021/0001760 ngày 02/4/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện K, tỉnh Đắk Lắk.
[5] Các quyết định của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
2. Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng, tuyên bố hợp đồng thế chấp tài sản vô hiệu số 08/2021/KDTM-PT
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH B
BẢN ÁN 08/2021/KDTM-PT NGÀY 20/12/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG, TUYÊN BỐ HỢP ĐỒNG THẾ CHẤP TÀI SẢN VÔ HIỆU
Trong ngày 5 tháng 11 và ngày 17, ngày 20 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh B xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 06/2021/TLPT- KDTM ngày 21/6/2021 về việc: “Tranh chấp hợp đồng tín dụng, yêu cầu tuyên hợp đồng thế chấp tài sản vô hiệu”.
Do bản án kinh doanh thương mại sự sơ thẩm số 02/2021/KDTM-ST ngày 23/4/2021 của Toà án nhân dân huyện Tân Yên bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 07/2021/QĐ-PT ngày 06/8/2021, Thông báo thay đổi thời gian mở phiên tòa số 105/TB-TA ngày 19/8/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 16/2021/QĐ-PT ngày 09/9/2021, Thông báo thay đổi thời gian mở lại phiên tòa số 141/TB-TA ngày 07/10/2021; Quyết định tạm ngừng phiên tòa số 47/2021/QĐ-PT ngày 05/11/2021, Thông báo thay đổi thời gian mở lại phiên tòa số 156/TB-TA ngày 02/12/2021 giữa:
* Nguyên đơn: Ngân hàng thương mại cổ phần DA Địa chỉ trụ sở chính: số ** đường P, quận Phú Nhuận, thành phố H.
Đại diện theo pháp luật: Ông Võ Minh T - Chức vụ: Chủ tịch hội đồng quản trị.
Đại diện theo ủy quyền: ông Ngô Minh S - Giám đốc phòng giao dịch huyện Tân Yên theo Văn bản ủy quyền ngày 29/4/2020 (có mặt).
* Bị đơn:
- Ông Tô Văn H, sinh năm 1955 (có đơn xin vắng mặt)
- Bà Khúc Thị T, sinh năm 1957 (có đơn xin vắng mặt) Đều trú tại: phố TQ, thị trấn N, huyện Tân Yên, tỉnh B.
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập:
- Cụ Nguyễn Thị H, sinh năm 1942 (có đơn xin vắng mặt)
- Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1973 (có đơn xin vắng mặt) Đều trú tại: tổ dân phố TP, thị trấn N, huyệnTân Yên, tỉnh B.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Ông Phạm Đình T (tức Phạm Văn T), sinh năm 1975 (có mặt tại phiên tòa ngày 17/12/2021, vắng mặt tại các phiên tòa khác)
- Anh Phạm Đình Tr (tức Phạm Văn Tr), sinh năm 1995 (vắng mặt) Đại diện theo pháp luật của anh Tr: Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1973 (có đơn xin vắng mặt) Nơi trú tại: tổ dân phố TP, thị trấn N, huyệnTân Yên, tỉnh B.
- Anh Phạm Đình B, sinh năm 1996 ( vắng mặt)
- Ông Phạm Đình T, sinh năm 1980 (có đơn xin vắng mặt)
- Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1985 (có đơn xin vắng mặt)
- Chị Phạm Thị D, sinh năm 1983 (có đơn xin vắng mặt) Đều trú tại: tổ dân phố TP, thị trấn N, huyệnTân Yên, tỉnh B.
- Ông Phạm Đình Đ, sinh năm 1963 (có đơn xin vắng mặt)
- Ông Phạm Đình T, sinh năm 1965 (có đơn xin vắng mặt) Đều trú tại: tổ dân phố TP, thị trấn N, huyệnTân Yên, tỉnh B.
- Bà Phạm Thị L, sinh năm 1960 ( vắng mặt) Nơi cư trú: số nhà 61, tổ 17, phường H, thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên.
- Bà Phạm Thị T, sinh năm 1972 ( vắng mặt) Nơi cư trú: tổ 18, phường H, thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên.
- Văn phòng công chứng Nguyễn Tư K Địa chỉ: số **, phố M, thị trấn Cao Thượng, huyện Tân Yên, tỉnh B.
Đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Tư K – Trưởng Văn phòng công chứng (Vắng mặt).
* Người kháng cáo: Nguyên đơn là Ngân hàng thương mại cổ phần DA do ông Ngô Minh S - Giám đốc phòng giao dịch huyện Tân Yên đại diện theo Văn bản ủy quyền ngày 29/4/2020.
* Kháng nghị số 01//QĐKNPT – VKS - KDTM ngày 7/5/2021 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Yên.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Nguyên đơn là Ngân hàng thương mại cổ phần DA do ông Ngô Minh Sang - Giám đốc phòng giao dịch huyện Tân Yên trình bày:
* Ngày 22/11/2012 Ngân hàng thương mại cổ phần DA (gọi tắt là Ngân hàng) – Chi nhánh B - Phòng giao dịch huyện Tân Yên và ông Tô Văn H cùng vợ là bà Khúc Thị T có ký hợp 2 hợp đồng tín dụng số 126/NT và 127/NT. Hợp đồng tín tụng số 126 /NT có hạn mức tín dụng là 1.200.000.000 đồng, mục đích sử dụng: bổ sung vốn kinh doanh, thời hạn vay của hạn mức tín dụng là 5 năm từ ngày 22/11/2012 đến ngày 22/11/2017. Hợp đồng tín dụng số 127 /NT có hạn mức tín dụng là 2.000.000.000 đồng, mục đích sử dụng: bổ sung vốn kinh doanh, thời hạn vay của hạn mức tín dụng là 5 năm từ ngày 22/11/2012.
Để đảm bảo cho các khoản vay theo các hợp đồng tín dụng trên, Ngân hàng và vợ chồng ông H, bà T cùng với bên có tài sản thế chấp đã ký 02 hợp đồng thế chấp:
- Hợp đồng thế chấp bất động sản để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của người khác số 127/NT- HĐTC ngày 22/11/2012 (gọi tắt là HĐTC số 127); bên thế chấp là cụ Phạm Đình Trọng, cụ Nguyễn Thị H, ông Phạm Đình Tân và bà Nguyễn Thị Ngọc; tài sản thế chấp là quyền sử dụng diện tích 838,4m2 đất trong đó có 360m2 đất ở, 478,4m2 đất vườn tại thửa số 290, tờ bản đồ số 05, địa chỉ thửa đất ở thôn Tiến Phan 1, xã Nhã Nam( nay là thị trấn Nhã Nam), huyện Tân Yên, tỉnh B và toàn bộ tài sản gắn liền với đất. Đất đã được UBND huyện Tân Yên cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (viết tắt là GCNQSDĐ) số AA 046652, số vào sổ 01818 QSDĐ/100/QĐ-CT ngày 23/11/2003 cho hộ ông Phạm Văn Trọng (tức Phạm Đình Trọng).
- Hợp đồng thế chấp bất động sản để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của người khác số 126/NT- HĐTC ngày 22/11/2012 (gọi tắt là HĐTC số 126); bên thế chấp là ông Phạm Đình Thưởng, bà Nguyễn Thị H. Tài sản thế chấp là quyền sử dụng diện tích 218,4m2 đất ở tại thửa số 280, tờ bản đồ số 05 địa chỉ thửa đất ở thôn Tiến Phan 1, xã Nhã Nam ( nay là thị trấn Nhã Nam), huyện Tân Yên, tỉnh B và toàn bộ tài sản gắn liền với đất. Đất đã được UBND huyện Tân Yên cấp GCNQSDĐ AA 046646, số vào sổ 01830 QSDĐ/100/QĐ-CT ngày 23/11/2003 cho hộ ông Phạm Văn Thưởng (tức Phạm Đình Thưởng).
* Căn cứ vào các hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp nói trên, Ngân hàng TMCP DA -chi nhánh Bắc Giangvà ông H, bà T đã ký 03 hợp đồng vay vốn cụ thể:
- Hợp đồng vay vốn số K0242/1 ngày 22/11/2012, ông H, bà T vay số tiền là 1.600.000.000 đồng; thời hạn vay là 06 tháng kể từ ngày 22/11/2012 đến ngày 22/05/2013. Lãi suất trong hạn là 15%/ năm, lãi suất quá hạn bằng 1,5 lần lãi suất trong hạn. Mục đích vay vốn bổ sung vốn kinh doanh. Tài sản bảo đảm của khoản vay trên là các quyền sử dụng đất theo HĐTC số 126 và HĐTC số 127; tổng giá trị tài sản bảo đảm là 4.698.000.000 đồng.
- Hợp đồng vay vốn số K0254/1 ngày 08/12/2012, ông H, bà T vay số tiền là 600.000.000 đồng; thời hạn vay là 06 tháng kể từ ngày 08/12/2012 đến ngày 08/06/2013. Lãi suất trong hạn là 15%/ năm, lãi suất quá hạn bằng 1,5 lần lãi suất trong hạn. Mục đích vay vốn bổ sung vốn kinh doanh. Tài sản bảo đảm của khoản vay trên là là các quyền sử dụng đất theo HĐTC số 126 và HĐTC số 127; tổng giá trị tài sản bảo đảm là 4.698.000.000 đồng - Hợp đồng vay vốn số K0292/1 ngày 27/4/2013, ông H, bà T vay số tiền là 1.000.000.000 đồng; thời hạn vay là 06 tháng kể từ ngày 27/4/2013 đến ngày 27/10/2013. Lãi suất trong hạn là 14%/ năm còn lãi suất quá hạn bằng 1,5 lần lãi suất trong hạn. Mục đích vay vốn bổ sung vốn kinh doanh. Tài sản bảo đảm của khoản vay trên là là các quyền sử dụng đất theo HĐTC số 126 và HĐTC số 127; tổng giá trị tài sản bảo đảm là 4.698.000.000 đồng.
* Quá trình thực hiện hợp đồng cụ thể như sau:
- Hợp đồng vay vốn số K0242/1: tính đến ngày 04/5/2019 ông H, bà T đã trả được 1.050.000.000 đồng tiền gốc và 233.146.556 đồng tiền lãi. Số tiền gốc nợ là 550.000.000 đồng và tiền lãi quá hạn là 1.340.812.500 đồng.
- Hợp đồng vay vốn số K0254/1: tính đến ngày 04/5/2019 ông H, bà T đã trả được 600.000.000 đồng tiền gốc và 60.875.000 đồng tiền lãi. Số tiền nợ gốc là 0 đồng, số tiền lãi quá hạn là 498.160.000 đồng.
- Hợp đồng vay vốn số K0292/1 tính đến ngày 04/5/2019 ông H, bà T đã trả 1.000.000.000 đồng tiền gốc và 35.388.890 đồng tiền lãi. Số tiền nợ gốc 0 đồng, tiền lãi trong hạn là 35.388.889 đồng và tiền lãi quán hạn là 484.166.667 đồng.
Đại diện Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Á yêu cầu ông H và bà T T toán 550.000.000 đồng nợ gốc, 2.570.639.167 đồng nợ lãi tính đến ngày 23/4/2021; lãi phát sinh kể từ sau ngày 23/4/2021 đến khi T toán xong toàn bộ dư nợ. Trường hợp ông H, bà T không trả được nợ thì đề nghị xử lý tài sản thế chấp theo quy định.
Bị đơn ông Tô Văn H, bà Khúc Thị T trình bày: ông bà xác nhận năm 2012 có vay vốn của Ngân hàng TMCP DA- chi nhánh B theo hợp đồng tín dụng số 126/NT ký ngày 22/11/2012 và hợp đồng tín dụng số 127/NT ngày 22/11/2012 với hạn mức vay là 3.200.000.000 đồng. Cùng ngày, giữa vợ chồng ông bà, cụ Trọng, cụ H, ông Tân, bà Ngọc, bà H, ông Thưởng với đại diện Ngân hàng thương mại cổ phần DA - chi nhánh B - phòng giao dịch Tân Yên có ký 02 hợp đồng thế chấp số 126 và 127. Tài sản bảo đảm theo hai hợp đồng thế chấp là quyền sử dụng đất tại thửa số 290, tờ bản đồ số 05 tại xã Nhã Nam theo GCNQSDĐ số AA 046652, số vào sổ 01818 QSDĐ/100/QĐ-CT do UBND huyện Tân Yên cấp ngày 23/11/2003 cho hộ cụ Phạm Đình Trọng (tức Phạm Văn Trọng) và quyền sử dụng đất tại thửa số 280, tờ bản đồ số 05 tại xã Nhã Nam theo GCNQSDĐ số AA 046646, số vào sổ 01830 QSDĐ/100/QĐ-CT do UBND huyện Tân Yên cấp ngày 23/11/2003 cho hộ ông Phạm VănThưởng(tức Phạm Đình Thưởng).
Sau khi ký hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp thì đại diện Ngân hàng DA – chi nhánh B và vợ chồng ông đã ký 03 hợp đồng vay vốn với tổng số tiền vay là 3.200.000.000 đồng dựa vào hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp đã ký tại phòng giao dịch Tân Yên là không đúng quy định của pháp luật. Ông bà xác định hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp để đảm bảo khoản tiền vay của vợ chồng ông bà tại phòng giao dịch Tân Yên chứ không đảm bảo khoản vay tại Ngân hàng thương mại cổ phẩn DA- chi nhánh B nên ông bà đề nghị tuyên bố hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 126 và số 127 ngày 22/11/2012 là vô hiệu.
Đối với tổng số nợ gốc và nợ lãi theo 3 hợp đồng vay vốn nêu trên, ông bà đồng ý trả nhưng đề nghị Ngân hàng thương mại cổ phần DA – chi nhánh B miễn giảm lãi do ông bà tuổi đã cao.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập:
- Cụ Nguyễn Thị H trình bày: cụ là vợ của cụ ông Phạm Đình Trọng. Gia đình cụ có thửa đất số 290, tờ bản đồ số 05 , rộng 838,4m2(gồm 360m2 đất ở và 478,4m 2 đất vườn) tại thôn Tiến Phan 1, xã Nhã Nam, huyện Tân Yên đã được cấp GCNQSDĐ số AA 046652, số vào sổ 01818 QSDĐ/100/QĐ-CT do UBND huyện Tân Yên cấp ngày 23/11/2003. Ngày 22/11/2012, vợ chồng cụ đã ký hợp đồng thế chấp số 127/NT – HĐTC với Ngân hàng thương mại cổ phẩn DA –Chi nhánh B phòng giao dịch Tân Yên để đảm bảo cho hợp đồng tín dụng số 127 ngày 22/11/2012 của ông Tô Văn H, bà Khúc Thị T tại Ngân hàng thương mại cổ phần DA -phòng giao dịch Tân Yên. Khi thế chấp, trên diện tích đất có nH cấp bốn 05 gian, nH bếp, chuồng lợn, nH vệ sinh. Từ sau khi thế chấp không xây dựng thêm gì. Cụ không đồng ý với yêu cầu phát mại tài sản của cụ vì Ngân hàng đang khởi kiện đối với khoản nợ theo hợp đồng vay vốn số K0242/1 ngày 22/11/2012, hợp đồng vay vốn số K0254/1 ngày 08/12/2012, hợp đồng vay vốn số K 0292/1 ngày 27/4/2013. Ba hợp đồng này không nằm trong phạm vi đảm bảo của hợp đồng thế chấp số 127 ngày 22/11/2012. Gia đình cụ có 9 thành viên là vợ chồng cụ và các con là bà L, ông Điện, ông Thưởng, ông T, bà T, ông Tân, bà Ngọc nhưng Hợp đồng thế chấp quyền chỉ có 4 thành viên ký, còn bà L, bà T, ông T, ông Thưởng, ông Đkhông ký là xâm phạm đến quyền và lợi ích của các con cụ. Cụ Trọng đã chết năm 2016. Cụ đề nghị tuyên bố hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 127 ngày 22/11/2012 vô hiệu. Ông T, bà H pH có trách nhiệm trả cho Ngân hàng số tiền còn nợ.
- Bà Nguyễn Thị H trình bày: ngày 22/11/2012 bà ký hợp đồng thế chấp số 126/NT – HĐTC với Ngân hàng thương mại cổ phẩn DA – chi nhánh B - phòng giao dịch Tân Yên để đảm bảo khoản vay của ông Tô Văn H, bà Khúc Thị T theo hợp đồng tín dụng số 126 ngày 22/11/2012. Đến nay Ngân hàng thương mại cổ phần DA – chi nhánh B đang khởi kiện đối với khoản nợ theo hợp đồng vay vốn số K0242/1 ngày 22/11/2012, hợp đồng vay vốn số K0254/1 ngày 08/12/2012, hợp đồng vay vốn số K 0292/1 ngày 27/4/2013. Ba hợp đồng vay vốn ông H, bà T ký với Ngân hàng thương mại cổ phần DA – chi nhánh B không nằm trong phạm vi đảm bảo của hợp đồng thế chấp số 126 ngày 22/11/2012. Khi Ngân hàng TMCP DA – chi nhánh B ký các hợp đồng vay vốn trên với ông H, bà T thì bà không được biết và cũng không được ông H, bà T cũng như Ngân hàng thông báo gì. Tại thời điềm thế chấp tài sản là quyền sử dụng đất của hộ gia đình bà thì có các thành viên là vợ chồng bà và các con là anh Trường, anh Bình nhưng trong hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất chỉ có bà tham gia ký kết, chồng con bà không ký là chưa đúng quy định. Do vậy, bà đề nghị tuyên bố hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 126 ngày 22/11/2012 vô hiệu, GCNQSDĐ thì bà đã được Ngân hàng trả lại.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm có:
- Ông Phạm Đình Thưởng (tức Phạm Văn Thưởng) là chồng bà H trình bày: Ông không biết việc vợ ông là bà Nguyễn Thị H cho vợ chồng ông H, bà T mượn sổ đỏ của gia đình để thế chấp vay tiền Ngân hàng. Khi Tòa án đến làm việc, thông báo thì ông mới đươc biết. Ông chưa từng ký hợp đồng thế chấp nào do ông không biết chữ. Chữ ký trong hợp đồng thế chấp là của ai thì ông không biết. Ông H, bà T pH chịu trách nhiệm trả nợ cho Ngân hàng, ông không đồng ý xử lý tài sản thế chấp vì các khoản vay mà Ngân hàng đang khởi kiện ông H, bà T không nằm trong phạm vi bảo đảm của Hợp đồng thế chấp số 126. Ông đề nghị Ngân hàng DA xóa thế chấp cho ông, gia đình ông đã được trả lại GCNQSDĐ nên ông không yêu cầu Ngân hàng trả lại. Đối với việc cụ Trọng, cụ H (bố mẹ ông) ký hợp đồng thế chấp số 127 ngày 22/11/2012 thì ông không nhất trí vì ông cũng là thành viên hộ gia đình cụ Trọng nhưng không được ký hợp đồng thế chấp. Nay bố ông là cụ Trọng đã mất năm 2016, ông đề nghị Tòa án tuyên Hợp đồng thế chấp số 127 vô hiệu.
- Ông Phạm Đình Tân và bà Nguyễn Thị Ngọc trình bày: ngày 22/11/2012 gia đình ông bà gồm có vợ chồng ông và cụ Trọng, cụ H có ký hợp đồng thế chấp số 127/NT – HĐTC với Ngân hàng thương mại cổ phẩn DA- phòng giao dịch Tân Yên để đảm bảo cho hợp đồng tín dụng số 127 ngày 22/11/2012 của ông Tô Văn H, bà Khúc Thị T tại phòng giao dịch Tân Yên. Tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất tại thửa số 290, tờ bản đồ số 05 tại xã Nhã Nam đã được cấp ngày 23/11/2003, trên đất có đất có nH cấp bốn 5 gian, bếp, chuồng lợn, nH vệ sinhđể bảo đảm khoản vay cho ông H, bà T vay vốn tại Ngân hàng TMCP DA – chi nhánh B, phòng giao dịch Tân Yên. Sau khi thế chấp vợ chồng ông bà đã làm thêm mái tôn. Đến nay Ngân hàng khởi kiện ông H, bà T trả số tiền vay và đề nghị xử lý tài sản thế chấp thì ông bà không đồng ý vì hợp đồng thế chấp số số 127/NT – HĐTC đảm bảo cho hợp đồng tín dụng số 127 ngày 22/11/2012 của ông Tô Văn H, bà Khúc Thị T tại phòng giao dịch Tân Yên. Tuy nhiên, Ngân hàng thương mại cổ phần DA- chi nhánh B đang khởi kiện ông H, bà T đối với khoản nợ theo hợp đồng vay vốn số K0242/1 ngày 22/11/2012, hợp đồng vay vốn số K0254/1 ngày 08/12/2012, hợp đồng vay vốn số K 0292/1 ngày 27/4/2013. Ba hợp đồng vay vốn ông H, bà T ký với Ngân hàng thương mại cổ phần DA – chi nhánh B không nằm trong phạm vi đảm bảo của hợp đồng thế chấp số 127 ngày 22/11/2012. Mặt khác, tại thời điểm thế chấp quyền sử dụng đất của hộ gia đình thì hộ có 09 thành viên là cụ H, cụ Trọng và các con là bà L, ông Điện, ông Thưởng, ông T, bà T, ông Tân, bà Ngọc nhưng trong hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất chỉ có vợ chồng cụ Trọng, ông Tân, bà Ngọc ký là chưa đúng quy định nên ông, bà đề nghị tuyên bố hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất theo hợp đồng thế chấp số 127 ngày 22/11/2012 vô hiệu, buộc Ngân hàng TMCP DA pH trả cho hộ gia đình ông bà Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AA 046652 - Đối với chị Phạm Thị Dinh, anh Phạm Đình Trường và Phạm Đình Bình trong qua trình giải quyết vụ án Tòa án không thu thập được lời khai của chị Dinh, anh Bình, anh Trường. Tại biên bản ghi lời khai ngày 17/12/2020 ông Thưởng, bà H thống nhất bà Nguyễn Thị H là người đại diện theo pháp luật của anh Phạm Đình Trường để tham gia giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
-Ông Phạm Đình T, ông Phạm Đình Điện, bà Phạm Thị T, bà Phạm Thị L là các con cụ Trọng và cụ H trình bày: năm 2012, cụ Trọng, cụ H và vợ chồng ông Tân, bà Ngọc có ký hợp đồng thế chấp số 127 ngày 22/11/2012, thế chấp quyền sử dụng đất tại thửa số 290, tờ bản đồ số 05 tại xã Nhã Nam đã được cấp ngày 23/11/2003 để bảo đảm khoản vay cho ông H, bà T vay vốn tại Ngân hàng TMCP DA – chi nhánh B - phòng giao dịch Tân Yên để vay số tiền 2.000.000.000 đồng. Các ông, bà không đồng ý với yêu cầu xử lý tài sản thế chấp của gia đình.
- Văn phòng công chứng Nguyễn Tư Khoa do ông Nguyễn Tư Khoa đại diện theo pháp luật trình bày: ngày 22/11/2012 ông Phạm Đình Thường, bà Nguyễn Thị H, cụ Phạm Đình Trọng, cụ Nguyễn Thị H, ông Phạm Đình Tân, bà Nguyễn Thị Ngọc đều là bên thế chấp quyền sử dụng đất theo hợp đồng thế chấp số 126/NT- HĐTC và hợp đồng thế chất số 127NT- HĐTC đã đến Văn phòng công chứng Nguyễn Tư Khoa yêu cầu công chứng hợp đồng thế chấp trên. Sau khi tiếp nhận hồ sơ yêu cầu công chứng chứng minh nhân dân, sổ hộ khẩu, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của hộ ông Thưởng, hộ cụ Trọng khớp với thông tin ghi trên hợp đồng thế chấp. Bên thế chấp đã ký vào hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất nên văn phòng công chứng thực hiện công chứng là đúng quy định của pháp luật.
Yêu cầu độc lập của cụ H và bà H là không có căn cứ. Tại thời điểm cấp GCNQSDĐ cho hộ gia đình ông Thưởng thì anh Trường, anh Bình chưa đủ 15 tuổi, nguồn gốc diện tích đất cấp cho ông Thưởng là do bố mẹ ông Thưởng cho con nên hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất chỉ có chữ ký của ông Thưởng, bà H. Tại thời điểm cấp GCNQSDĐ cho hộ cụ Trọng thì hộ chỉ có cụ Trọng, cụ H, ông Tân, bà Ngọc còn cháu Tâm sinh sau thời điểm được cấp GCNQSDĐ. Đối chiếu với các thành viên trong sổ hộ khẩu với thành viên của hộ cụ Trọng trong hợp đồng thế chấp là đúng và đầy đủ. Khi các bên ký hợp đồng thế chấp, ông Thưởng, bà H thấy quyền và nghĩa vụ của mình bị xâm phạm thì ông Thưởng, bà H phải có ý kiến với Ngân hàng DA hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết nhưng ông Thưởng, bà H đều không có ý kiến, đến năm 2017 mới yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu là đã quá thời hạn quy định về quyền yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu.
* Luật sư Tạ Văn Phú bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà Nguyễn Thị H trình bày: ngày 22/11/2012 bà H có ký hợp đồng thế chấp số 126 với Ngân hàng thương mại cổ phần DA – chi nhánh B- phòng giao dịch Tân Yên để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ của ông H, bà T đối với các khoản vay phát sinh tại phòng giao dịch Tân Yên. Tuy nhiên, hiện nay Ngân hàng thương mại cổ phần DA – chi nhánh B khởi kiện ông H, bà T trả số tiền theo hợp đồng vay vốn số K0242/1 ngày 22/11/2012, hợp đồng vay vốn số K0254/1 ngày 08/12/2012, hợp đồng vay vốn số K 0292/1 ngày 27/4/2013. Ba hợp đồng vay vốn trên đều do ông H, bà T ký với Ngân hàng thương mại cổ phần DA – chi nhánh B. Tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất cấp cho hộ ông Thưởng - gồm 4 thành viên: ông Thưởng, bà H, anh Bình, anh Trường nhưng tại hợp đồng thế chấp chỉ có một mình bà H ký mà không có văn bản ủy quyền theo pháp luật. Anh Trường là người bị câm điếc bẩm sinh nhưng quyền và lợi ích của anh Trường vẫn được bảo đảm, là thành viên của hộ gia đình sử dụng đất. Khi định đoạt liên quan đến phần tài sản của anh Trường phải có sự đồng ý của người giám hộ của anh Trường. Trong hợp đồng thế chấp số 126 thể hiện có chữ ký của bà H, ông Thưởng nhưng chữ ký của ông Thưởng là giả mạo vì ông Thưởng là người không biết chữ. Về địa điểm ký hợp đồng thế chấp, theo lời khai của bà H thì hợp đồng thế chấp được ông H, bà T mang về nhà cho bà H ký chứ bà không xuống văn phòng công chứng Nguyễn Tư K ký là không đúng quy định của pháp luật. Ông Thưởng, bà H ký hợp đồng thế chấp mà không có chữ ký của các thành viên còn lại trong hộ gia đình, chữ ký của ông Thưởng trong hợp đồng thế chấp không đảm bảo tính pháp lý đã vi phạm điều cấm của pháp luật và thuộc trường hợp hợp đồng vô hiệu theo quy định tại Điều 128 Bộ luật dân sự. Từ những phân tích nêu trên, luật sư đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 109, Điều 128 Bộ luật dân sự năm 2005, Điều 39, Điều 41 Luật công chứng năm 2006, khoản 2 Điều 146 Nghị định 181/2004/NĐ- CP của chính phủ, mục 4 phần III Giải đáp số 01/2021/GĐ-TANDTC của Tòa án nhân dân tối cao tuyên: Bác yêu cầu phát mại tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất đối với thửa số 280 tờ bản đồ số 05 của hộ gia đình ông Phạm Đình Thưởng. Chấp nhận yêu cầu độc lập của bà H, ông Thưởng tuyên bố hợp đồng thế chấp số 126/NT- HĐTC vô hiệu. Yêu cầu Ngân hàng thương mại cổ phần DA giải chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AA 046646 số vào số cấp giấy chứng nhận: 01830/QS DĐ/100/QQĐ- CT do UBND huyện Tân Yên cấp ngày 23/11/2003 cho hộ ông Phạm Đình Thưởng.
Do có nội dung trên, bản án dân sự sơ thẩm số 02/2021/KDTM-ST ngày 23/4/2021 của Toà án nhân dân huyện Tân Yên đã quyết định:
1. Buộc ông Tô Văn H và bà Khúc Thị T pH trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần DA – Chi nhánh B đại diện với tổng số tiền là 3.120.639.167 đồng tính đến ngày xét xử sơ thẩm ngày 23/4/2021, trong đó có 550.000.000đồng tiền nợ gốc và 2.570.639.167 đồng tiền nợ lãi.
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm,ông Tô Văn H và bà Khúc Thị T còn pH tiếp tục chịu khoản lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa T toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi T toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng thương mại cổ phần DA - chi nhánh B đại diện cho vay thì lãi suất mà ông Tô Văn H, bà Khúc Thị T vay pH tiếp tục T toán cho Ngân hàng thương mại cổ phần DA- chi nhánh B đại diện cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng thương mại cổ phần DA-chi nhánh B đại diện cho vay.
2. Tuyên bố hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất của bên thứ ba số 126/NT/HĐTC ngày 22/11/2012 ký kết giữa bên nhận thế chấp Ngân hàng thương mại cổ phần DA - Chi nhánh B – Phòng giao dịch Tân Yên với bên thế chấp vợ chồng ông Phạm Đình Thưởng, bà Nguyễn Thị H và hợp đồng thế chấp số 127/NT/HĐTCngày 22/11/ 2012 ký kết giữa bên nhận thế chấp Ngân hàng thương mại cổ phần DA- Chi nhánh B - Phòng giao dịch Tân Yên với bên thế chấp vợ chồng cụ Phạm Đình Trọng, cụ Nguyễn Thị H, ông Phạm Đình Tân, bà Nguyễn Thị Ngọc vô hiệu.
3. Về chi phí thẩm định tại chỗ: Ngân hàng thương mại cổ phần DA - chi nhánh B đại diện pH chịu 900.000 đồng chi phí thẩm định tại chỗ. Xác nhận Ngân hàng thương mại cổ phần DA -chi nhánh B đại diện đã nộp đủ chi phí thẩm định tài sản.
4. Về án phí: Ông Tô Văn H và bà Khúc Thị T, cụ Nguyễn Thị H được miễn tiền án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm.
Trả lại cho bà Nguyễn Thị H 3.000.000 đồng án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm đã nộp tại biên lai số AA/2018/ 0006361 ngày 16/ 6/ 2020 tại chi cục thi hành án dân sự huyện Tân Yên.
Ngân hàng thương mại cổ phần DA - Chi nhánh B đại diện pH chịu 3.000.000 đồng án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 45.000.000 đồng đã nộp tại biên lại số AA/2018/ 0005894 ngày 02/ 8/2019 tại chi cục thi hành án dân sự huyện Tân Yên. Hoàn trả lại Ngân hàng thương mại cổ phần DA – Chi nhánh B đại diện số tiền là 42.000.000 đồng đã nộp tại biên lai số AA/2018/ 0005894 ngày 02/ 8/2019 tại chi cục thi hành án dân sự huyện Tân Yên.
Ngoài ra bản án còn tuyên quyền kháng cáo cho các bên đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 28/4/2021, đại diện của nguyên đơn là Ngân hàng thương mại cổ phần DA nộp đơn kháng cáo, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét lại bản án theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu xử lý tài sản thế chấp của Ngân hàng, tuyên các hợp đồng thế chấp nêu trên có hiệu lực pháp luật.
Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Yên có kháng nghị số 01/QĐKNPT-VKS- KDTM ngày 07 tháng 5 năm 2021, cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm vi phạm trong việc đánh giá chứng cứ, đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh B sửa Bản án sơ thẩm theo hướng: xác định hợp đồng thế chấp số 127 có hiệu lực pháp luật; xác định hợp đồng thế chấp số 126 vô hiệu ½; chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn về việc xử lý tài sản thế chấp theo quy định của pháp luật; buộc ông Tô Văn H và bà Khúc Thị T pH chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm. Ngoài ra, kháng nghị còn nêu ra một số thiếu sót của Tòa án cấp sơ thẩm về việc tuyên án: xác định hai hợp đồng thế chấp số 126 và 127 vô hiệu nhưng không tuyên việc chấp nhận yêu cầu của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập; không tuyên việc không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc xử lý tài sản thế chấp.
Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 5/11/2021:
Đại diện nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và xin thay đổi, bổ sung kháng cáo: đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh B sửa bản án sơ thẩm theo hướng tuyên bố hợp đồng thế chấp số 127 có hiệu lực pháp luật; tuyên bố hợp đồng thế chấp số 126 bị vô hiệu ½ do hai con của bà H, ông Thưởng không ký hợp đồng; chấp nhận một phần yêu cầu xử lý tài sản thế chấp của nguyên đơn theo quy định của pháp luật. Các khoản vay của ông H và bà T được bảo đảm đồng thời bằng hai tài sản thế chấp, tỷ lệ bảo đảm sẽ căn cứ vào tỷ lệ % giá trị của từng tài sản so với tổng giá trị tài sản đã định giá tại tời điểm thế chấp. Nguyên đơn nhất trí với Kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Yên. Năm 2015, Giám đốc Phòng giao dịch đã đồng ý cho các gia đình mượn lại GCNQSDĐ để đối chiếu số liệu đất đai với thôn. Sau đó, các gia đình chưa trả lại cho Ngân hàng. Hiện tại, Ngân hàng không còn quản lý hai GCNQSDĐ trên nhưng việc thế chấp vẫn còn hiệu lực vì chưa làm thủ tục xóa thế chấp đối với các thửa đất trên.
Bà Nguyễn Thị H có đơn xin xét xử vắng mặt, không yêu cầu Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp tại cấp phúc thẩm. Các đương sự khác đều vắng mặt.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B giữ nguyên Kháng nghị số 01//QĐKNPT – VKS - KDTM ngày 7/5/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Yên, đề nghị tạm ngừng phiên tòa để xác minh việc xóa thế chấp đối với hai thửa đất có liên quan, năm sinh chính xác của cụ H, bà H; tên chính xác của anh Trường do trong hồ sơ vụ án có nhiều thông tin khác nhau. Hội đồng xét xử phúc thẩm quyết định tạm ngừng phiên tòa.
Tại phiên tòa ngày 17/12/2021:
Nguyên đơn trình bày giữ nguyên kháng cáo ban đầu, đề nghị Tòa án xác định cả hai hợp đồng thế chấp số 126 và 127 có hiệu lực. Trường hợp ông H và bà T không thực hiện nghĩa vụ trả nợ , Ngân hàng có quyền yêu cầu phát mại các tài sản thế chấp theo hai hợp đồng thế chấp nói trên. Trường hợp có hợp đồng thế chấp bị tuyên vô hiệu thì Ngân hàng chưa xác định được thiệt hại nên không yêu cầu xem xét trong vụ án này. Việc Ngân hàng trả lại GCNQSDĐ cho hai hộ gia đình không ảnh hưởng gì đến việc thế chấp các tài sản trên vì việc thế chấp được đăng ký theo quy định của pháp luật và chưa xóa thế chấp.
Ông Phạm Đình Thưởng có mặt trình bày: Do bận việc gia đình nên ông và các thành viên trong gia đình không tham gia các phiên tòa trước. Ông chưa bao giờ đồng ý cho ông H, bà T mượn sổ đỏ để thế chấp vay tiền Ngân hàng. Bà H vợ ông ông tự quyết mà không nói gì cho ông và các con được biết. Ông chưa từng đến Văn phòng công chứng Nguyễn Tư Khoa và cũng chưa bao giờ ký hợp đồng thế chấp nào do ông không biết đọc, không biết viết. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của gia đình ông và gia đình cụ Trọng thì Ngân hàng đã trả lại cho hai gia đình. Nếu ông H, bà T không trả được nợ cho Ngân hàng, ông không đồng ý phát mại nH, đất của ông để trả nợ cho Ngân hàng DA vì việc thế chấp trên là trái pháp luật. Ông đề nghị Hội đồng xét xử xác định hợp đồng thế chấp nH, đất của ông vô hiệu. Gia đình ông không có yêu cầu giải quyết hậu quả của hơp đồng vô hiệu do đã nhận được GCNQSDĐ.
Đại diện Viểm sát tỉnh B giữ nguyên nội dung kháng nghị và phát biểu quan điểm:
- Về tố tụng: Toà án nhân dân tỉnh B và các đương sự đã chấp hành đầy đủ các trình tự, thủ tục của Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm Toà án nhân dân tỉnh B áp dụng khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự, chấp nhận toàn bộ kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Yên, chấp nhận một phần kháng cáo của đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn, sửa bản án sơ thẩm.
Về án phí dân sự phúc thẩm: nguyên đơn không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm do một phần kháng cáo được chấp nhận.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về sự vắng mặt của các đương sự tại phiên tòa: Ông H, bà T, cụ H, bà H, ông Tân, bà Ngọc, chị Dinh, ông Điện, ông T đã có đơn xin xét xử vắng mặt; bà L, bà T, đại diện Văn phòng công chứng Tư Khoa, anh Bình được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa mở lần thứ hai. Do vậy, Tòa án xét xử vắng mặt họ là đảm bảo quy định tại Điều 296 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Xét nội dung kháng nghị và kháng cáo về hiệu lực của các hợp đồng thế chấp và việc xử lý tài sản thế chấp:
[2.1] Ngày 22/11/2012, Ngân hàng TMCP DA – Chi nhánh B - Phòng giao dịch huyện Tân Yên và ông Tô Văn H, bà Khúc Thị T có ký kết 2 hợp đồng tín dụng: Hợp đồng tín dụng số 126/NT với hạn mức tín dụng là 1.200.000.000 đồng và Hợp đồng tín dụng số 127/NT với hạn mức tín dụng là 2.000.000.000 đồng. Cùng ngày, tại Văn phòng công chứng Nguyễn Tư Khoa, ông H, bà T cùng với bên có tài sản thế chấp đã ký Hợp đồng thế chấp số 126 và Hợp đồng thế chấp số 127 với Ngân hàng để đảm bảo cho các khoản vay theo các hợp đồng tín dụng trên.
Căn cứ vào các hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp nói trên, Ngân hàng TMCP DA - chi nhánh Bắc Giang và ông H, bà T đã ký 03 hợp đồng vay vốn cụ thể: Hợp đồng vay vốn số K0242/1 ngày 22/11/2012, ông H, bà T vay số tiền là 1.600.000.000 đồng; Hợp đồng vay vốn số K0254/1 ngày 08/12/2012, ông H, bà T vay số tiền là 600.000.000 đồng; Hợp đồng vay vốn số K0292/1 ngày 27/4/2013, ông H, bà T vay số tiền là 1.000.000.000 đồng.
Theo Quyết định số 13/2008/QĐ- NHNN ngày 29/4/2008 của Ngân hàng Nhà nước: phòng giao dịch là bộ phận phụ thuộc sở giao dịch, chi nhánh của Ngân hàng thương mại hạch toán báo sổ, có con dấu, thực hiện một số giao dịch với khách hàng. Phòng giao dịch không được cấp tín dụng cho một khách hàng vượt quá hai tỷ đồng Việt Nam. Tuy nhiên, Ngân hàng thương mại cổ phần DA là nguyên đơn trong vụ án đã biết và không có ý kiến gì về các hợp đồng tín dụng, các hợp đồng thế chấp nói trên thì các hợp đồng tín dụng, các hợp đồng thế chấp đều được coi là được ký kết trong phạm vi được ủy quyền (phạm vi được đại diện) theo quy định tại Điều 92 và Điều 146 của Bộ luật Dân sự 2005. Ngân hàng DA có các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ các hợp đồng tín dụng, hợp đồng thế chấp do Chi nhánh B hoặc Phòng giao dịch tại Tân Yên xác lập và thực hiện. Tòa án cấp sơ thẩm xác định hợp đồng tín dụng số 126, 127 vô hiệu do vượt quá hạn mức là không đúng.
[2.2] Về hiệu lực của Hợp đồng thế chấp số 126/NT-HĐTC ngày 22/11/2012 giữa Ngân hàng thương mại cổ phần DA – Phòng giao dịch huyện Tân Yên với ông Phạm Đình Thưởng và bà Nguyễn Thị H và yêu cầu xử lý tài sản theo hợp đồng thế chấp số 126 của nguyên đơn:
Theo nội dung ghi trong hợp đồng thế chấp số 126: Bên nhận thế chấp được xác định là Ngân hàng thương mại cổ phần DA; bên thế chấp là ông Phạm Đình Thưởng và bà Nguyễn Thị H. Ông Thưởng, bà H thế chấp quyền sử dụng diện tích 218,4m2 đất ở tại thửa số 280, tờ bản đồ số 05 địa chỉ thửa đất ở thôn Tiến Phan 1, xã Nhã Nam ( nay là thị trấn Nhã Nam), huyện Tân Yên, tỉnh B và toàn bộ tài sản gắn liền với đất. Đất đã được UBND huyện Tân Yên cấp GCNQSDĐ AA 046646, số vào sổ 01830 QSDĐ/100/QĐ-CT ngày 23/11/2003 cho hộ ông Phạm Văn Thưởng (tức Phạm Đình Thưởng) đảm bảo cho việc thực hiên nghĩa vụ của ông H, bà T theo hợp đồng tín dụng số 126/NT và và các nghĩa vụ phát sinh trong tương lai của ông H, bà T đối với Ngân hàng DA.
Tại thời điểm được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (ngày 23/11/2003), hộ ông Phạm Đình Thưởng có 4 thành viên (ông Phạm Đình Thưởng và vợ là bà Nguyễn Thị H; anh Phạm Đình Trường và anh Phạm Đình Bình là các con ông Thưởng, bà H). Theo quy định tại Điều 108 Bộ luật Dân sự năm 2005 và Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì quyền sử dụng thửa đất số 280 nói trên là tài sản chung của hộ gia đình bà H. Do ông Thưởng và bà H đều xác định các thành viên trong gia đình có quyền ngang nhau nên ½ giá trị quyền sử dụng thửa đất là tài sản chung hợp nhất của ông Thưởng và bà H, ½ giá trị quyền sử dụng thửa đất là tài sản chung theo phần của anh Trường và anh Bình (các con của ông Thưởng, bà H).
Hợp đồng thế chấp số 126 do nguyên đơn cung cấp thể hiện ông Thưởng, bà H, đại diện Ngân hàng DA, ông H, bà T tham gia ký kết hợp đồng, được công chứng tai Văn phòng công chứng Nguyễn Tư Khoa. Sau khi công chứng, các bên làm thủ tục đăng ký thế chấp tại cơ quan có thẩm quyền. Tại muc bên B (bên thế chấp) trong hợp đồng có chữ ký, chữ viết của ông Thưởng và bà H. Tuy nhiên, tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm, ông Thưởng đều trình bày không biết việc bà H cho ông T, bà H mượn sổ đỏ của gia đình để thế chấp Ngân hàng. Khi Tòa án đến làm việc, thông báo thì ông mới được biết. Ông chưa từng biết đến Hợp đồng thế chấp số 126 và cũng chưa ký vào hợp đồng này. Lời trình bày của ông Thưởng là có căn cứ chấp nhận vì Trưởng thôn nơi ông Thưởng sinh sống xác nhận ông Thưởng không biết đọc, không biết viết. Do đó, đủ cơ sở xác định ông Thưởng, anh Bình, anh Trường không biết và không được ký hợp đồng thế chấp nói trên. Quyền sử dụng đất là tài sản có giá trị lớn của hộ gia đình, của vợ chồng. Việc bà H tự ý định đoạt tài sản chung hợp nhất chưa phân chia của vợ chồng, tự ý định đoạt phần tài sản của các đồng sở hữu chung theo phần (các con) mà không có sự bàn bạc hay đươc sự đồng ý của họ là vi phạm Điều 109, Điều 223 của Bộ luật Dân sự năm 2005; Điều 28 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Căn cứ Điều 121, Điều 122, Điều 128 của Bộ luật Dân sự 2005, xác định hợp đồng thế chấp số 126/NT-HĐTC vô hiệu toàn bộ do vi phạm điều cấm của pháp luật. Do hợp đồng thế chấp 126 vô hiệu nên yêu cầu xử lý tài sản theo hợp đồng thế chấp số 126 của nguyên đơn là không có căn cứ chấp nhận. Về hậu quả của hợp đồng thế chấp tài sản bị tuyên vô hiệu, Tòa án đã tiến hành giải thích quy định của pháp luật nhưng không đương sự nào có yêu cầu gì nên không xem xét, giải quyết. Sau này, nếu có yêu cầu, các đương sự có quyền khởi kiện, yêu cầu giải quyết bằng vụ án khác.
Tòa án cấp sơ thẩm xác định Hợp đồng thế chấp số 126 vô hiệu, không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về xử lý tài sản theo Hợp đồng thế chấp 126 là đúng nhưng nhận định Hợp đồng thế chấp số 126 chỉ đảm bảo cho các khoản vay của ông H, bà T tại phòng giao dich Tân Yên mà không đảm bảo các khoản vay của ông H, bà T tại Chi nhánh B của Ngân hàng DA là không chính xác.
[2.3] Về Hợp đồng thế chấp số 127/NT-HĐTC ngày 22/11/2012 giữa Ngân hàng thương mại cổ phần DA – Phòng giao dịch huyện Tân Yên với cụ Phạm Đình Trọng, cụ Nguyễn Thị H, ông Phạm Đình Tân, bà Nguyễn Thị Ngọc và yêu cầu xử lý tài sản theo hợp đồng thế chấp số 127/NT-HĐTC:
Theo nội dung của hợp đồng: bên nhận thế chấp được xác định là Ngân hàng thương mại cổ phần DA. Bên thế chấp là cụ Phạm Đình Trọng, cụ Nguyễn Thị H, ông Phạm Đình Tân, bà Nguyễn Thị Ngọc. Tài sản thế chấp là quyền sử dụng diện tích 838,4m2 đất trong đó có 360m2 đất ở, 478,4m2 đất vườn tại thửa số 290, tờ bản đồ số 05, địa chỉ thửa đất ở thôn Tiến Phan 1, xã Nhã Nam( nay là thị trấn Nhã Nam), huyện Tân Yên, tỉnh B và toàn bộ tài sản gắn liền với đất. Đất đã được UBND huyện Tân Yên cấp GCNQSDĐ số AA 046652, số vào sổ 01818 QSDĐ/100/QĐ-CT ngày 23/11/2003 cho hộ ông Phạm Văn Trọng (tức Phạm Đình Trọng).
Tại thời điểm cấp GCNQSDĐ (ngày 23/11/2003), hộ gia đình cụ Phạm Đình Trọng có 4 thành viên (cụ Trọng, cụ H, ông Tân, bà Ngọc). Các con của cụ Trọng đều đã lập gia đình riêng và không có tên trong danh sách thành viên hộ gia đình. Cháu Phạm Thị T Tâm, sinh năm 2007 và cháu Phạm Thị T Ngân, sinh năm 2010 là các con của anh Tân, chị Ngọc hiên nay có tên trong sổ hộ khẩu gia đình nhưng đều sinh sau thời điểm cấp GCNQSDĐ. Theo quy định tại Điều 108 Bộ luật Dân sự năm 2005 và Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì quyền sử dụng thửa đất số 290 nói trên là tài sản chung của cụ Trọng, cụ H, ông Tân, bà Ngọc. Khi xác lập hợp đồng thế chấp số 127 thì tất cả các thành viên trong hộ gia đình trên 15 tuổi đã tự nguyện ký vào hợp đồng thế chấp là đảm bảo quy định về định đoạt tài sản chung theo quy định tại Điều 109, Điều 223 của Bộ luật Dân sự năm 2005; Điều 28 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Hợp đồng được công chứng tại Văn phòng Công chứng Nguyễn Tư Khoa; các bên đã làm thủ tục đăng ký thế chấp tại cơ quan có thẩm quyền. Do vậy, Hợp đồng thế chấp số 127 có hiệu lực pháp luật theo quy định tại Điều 121, Điều 122, Điều 135, Điều 137 của Bộ luật Dân sự 2005.
Nay, đại diện Ngân hàng trình bày không còn quản lý GCNQSDĐ của gia đình cụ H nhưng qua làm việc tại Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Tân Yên, việc thế chấp quyền sử dụng thửa số 290, tờ bản đồ số 05, địa chỉ thửa đất ở thôn Tiến Phan 1, xã Nhã Nam( nay là thị trấn Nhã Nam), huyện Tân Yên, tỉnh B và toàn bộ tài sản gắn liền với đất chưa được xóa thế chấp. Căn cứ vào Điều 2 và Điều 6 trong các Hợp đồng thế chấp số 127 và quy định tại Điều 342, Điều 351, Điều 355 của Bộ luật Dân sự 2005, trường hợp ông H và bà T không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ, Ngân hàng DA có quyền đề nghị phát mại tài sản thế chấp để thu hồi nợ theo Hợp đồng thế chấp số 127.
Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố hợp đồng thế chấp số 127 vô hiệu và không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về xử lý phát mại tài sản thế chấp theo hợp đồng trên trong trường hợp bên vay không thực hiên nghĩa vụ trả nợ là không đúng, cần chấp nhận kháng nghị và kháng cáo của nguyên đơn về nội dung này.
[3] Xét nội dung kháng nghị về án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm:
Nội dung kháng nghị cho rằng: Tranh chấp giữa Ngân hàng DA với ông Tô T H, bà Khúc Thị T là tranh chấp kinh doanh thương mại giữa pháp nhân có đăng ký kinh doanh với cá nhân có đăng ký kinh doanh, đều có mục đích lợi nhuận. Do đó, ông H, bà T trên 60 tuổi nhưng không thuộc trường hợp được miễn án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm. Ông H và bà T phải có nghĩa vụ T toán cho Ngân hàng DA tổng số tiền 3.120.639.167 đồng. Theo quy định tại Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội và điểm đ mục 1.4 – A Danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết 326 thì ông H và bà T phải chịu án phí tương ứng là: 72.000.000 đồng +2% x 1.120.639.167 đồng = 94.412.783 đồng. Việc Tòa án cấp sơ thẩm miễn án phí cho ông H, bà T là không đúng, gây thất thu cho Ngân sách Nhà nước.
Căn cứ lời khai của các đương sự và các tài liệu có trong hồ sơ thì thấy: ông H và bà T vay tiền với tư cách cá nhân, không đại diện cho tổ chức hay pháp nhân nào. Tại thời điểm xét xử sơ thẩm, ông H và bà T đều trên 60 tuổi, là người cao tuổi, có đơn xin miễn tiền án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm. Đối chiếu quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 và Điều 14 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì ông H và bà T đủ điều kiện được miễn án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm. Tòa án cấp sơ thẩm miễn toàn bộ án phí kinh doanh thương mại cho ông H, bà T là có căn cứ và đúng pháp luật. Do vậy, không có căn cứ chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Yên về nội dung này.
[4] Những thiếu sót cần rút kinh nghiệm:
Về việc xác định tư cách đương sự: Cụ Phạm Đình Trọng chết năm 2016, trước khi Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý vụ án. Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định Hng thừa kế thứ nhất của cụ Trọng là những người kế thừa quyền và nghĩa vụ của đương sự là chưa chính xác, cần xác định lại là những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Việc xác định sai tư cách đương sự không làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng nhưng cần rút kinh nghiệm trong các vụ án sau này.
Tòa án cấp sơ thẩm tuyên ông H, bà T pH trả nợ nhưng không ghi trả theo các hợp đồng tín dụng cụ thể nào; Ngân hàng có yêu cầu về xử lý tài sản thế chấp, bà H có yêu cầu độc lập về việc tuyên Hợp đồng thế chấp số 126 vô hiệu, cụ H có yêu cầu độc lập về việc tuyên Hợp đồng thế chấp số 127 vô hiệu. Tòa án cấp sơ thẩm xác định các hợp đồng thế chấp số 126 và 127 vô hiệu nhưng không tuyên việc chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc xử lý tài sản thế chấp, không tuyên chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là có thiếu sót, cần rút kinh nghiệm.
[5] Từ những phân tích, đánh giá trên, Hội đồng xét xử cần áp dụng khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự, chấp nhận một phần kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Yên và một phần kháng cáo của nguyên đơn, sửa một phần bản án sơ thẩm theo hướng: Tuyên bố Hợp đồng thế chấp số 126 vô hiệu; tuyên bố Hợp đồng thế chấp số 127 có hiệu lực pháp luật. Trường hợp ông H, bà T không trả nợ hoăc không trả nợ đầy đủ các khoản nợ theo các hợp đồng tín dụng đã ký kết, Ngân hàng DA có quyền yêu cầu phát mại tài sản thế chấp của Hợp đồng thế chấp số 127 theo quy định của pháp luật; không chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Yên về việc buộc ông T, bà H pH chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm.
[6] Về án phí phúc thẩm: Kháng cáo của nguyên đơn được chấp nhận một phần nên nguyên đơn không pH chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309, khoản 3 Điều 296 của Bộ luật Tố tụng dân sự, xử chấp nhận một phần kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Yên, tỉnh B; chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn là Ngân hàng thương mại cổ phần DA. Sửa bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 02/2021/KDTM-ST ngày 21/6/2021 của Tòa án nhân dân huyện Tân Yên, tỉnh B.
Căn cứ Điều 92, Điều 146, Điều 108, Điều 109, Điều 121, Điều 122, Điều 128, Điều 135, Điều 137, Điều 342, Điều 351, Điều 355, Điều 216, Điều 217, Điều 223 Bộ luật Dân sự năm 2005; Điều 27 và Điều 28 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000; Căn cứ khoản 1 Điều 30; điểm b khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 157; Điều 158; Điều 184 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Án lệ số 08/2016/ AL ngày 17/10/2016.
Căn cứ Điều 12, Điều 14, Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; xử :
1. Buộc ông Tô Văn H và bà Khúc Thị T pH trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần DA tổng số tiền là 3.120.639.167 đồng tính đến ngày xét xử sơ thẩm (23/4/2021), trong đó có 550.000.000 đồng tiền nợ gốc và 2.570.639.167 đồng tiền nợ lãi theo các hợp đồng tín dụng đã ký kết với Ngân hàng thương mại cổ phần DA – Chi nhánh B: Hợp đồng vay vốn số K0242/1 ngày 22/11/2012, Hợp đồng vay vốn số K0254/1 ngày 08/12/2012; Hợp đồng vay vốn số K0292/1 ngày 27/4/2013.
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, ông Tô Văn H và bà Khúc Thị T còn pH tiếp tục chịu khoản lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa T toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi T toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng thương mại cổ phần DA - Chi nhánh B đại diện cho vay thì lãi suất mà ông Tô Văn H, bà Khúc Thị T vay pH tiếp tục T toán cho Ngân hàng thương mại cổ phần DA - Chi nhánh B đại diện cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng thương mại cổ phần DA - Chi nhánh B đại diện cho vay.
2. Không chấp nhận yêu cầu độc lập của cụ Nguyễn Thị H về việc tuyên bố hợp đồng thế chấp số 127/NT/HĐTC ngày 22/11/ 2012 giữa Ngân hàng thương mại cổ phần DA - Chi nhánh B - Phòng giao dịch Tân Yên với cụ Phạm Đình Trọng, cụ Nguyễn Thị H, ông Phạm Đình Tân, bà Nguyễn Thị Ngọc vô hiệu.
3. Chấp nhận yêu cầu độc lập của bà Nguyễn Thị H. Tuyên bố Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất của bên thứ ba số 126/NT/HĐTC ngày 22/11/2012 giữa Ngân hàng thương mại cổ phần DA - Chi nhánh B – Phòng giao dịch Tân Yên với ông Phạm Đình Thưởng, bà Nguyễn Thị H vô hiệu.
4. Trường hợp ông Tô T H và bà Khúc Thị T không thi hầnh hoặc thi hành không đầy đủ khoản tiền vay và lãi phát sinh tại các Hợp đồng tín dụng: Hợp đồng vay vốn số K0242/1 ngày 22/11/2012, Hợp đồng vay vốn số K0254/1 ngày 08/12/2012; Hợp đồng vay vốn số K0292/1 ngày 27/4/2013 đã ký kết với Ngân hàng thương mại cổ phần DA – Chi nhánh B thì Ngân hàng DA có quyền yêu cầu Cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền xử lý tài sản thế chấp theo Hợp đồng thế chấp bất động sản để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của người khác số 127/NT- HĐTC ngày 22/11/2012 (gọi tắt là HĐTC số 127) giữa cụ Phạm Đình Trọng, cụ Nguyễn Thị H, ông Phạm Đình Tân và bà Nguyễn Thị Ngọc với Ngân hàng thương mại cổ phần DA. Tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa số 290, tờ bản đồ số 05, diện tích 838,4m2 tại thôn Tiến Phan 1, xã Nhã Nam( nay là thị trấn Nhã Nam), huyện Tân Yên, tỉnh B. Đất đã được UBND huyện Tân Yên cấp GCNQSDĐ số AA 046652, số vào sổ 01818 QSDĐ/100/QĐ-CT ngày 23/11/2003 cho hộ ông Phạm Văn Trọng (tức Phạm Đình Trọng).
Không chấp nhận yêu cầu của Ngân hàng thương mại cổ phần DA về việc xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng diện tích 218,4m2 đất ở tại thửa số 280, tờ bản đồ số 05 địa chỉ thửa đất ở thôn Tiến Phan 1, xã Nhã Nam ( nay là thị trấn Nhã Nam), huyện Tân Yên, tỉnh B và toàn bộ tài sản gắn liền với đất; đất đã được UBND huyện Tân Yên cấp GCNQSDĐ AA 046646, số vào sổ 01830 QSDĐ/100/QĐ-CT ngày 23/11/2003 cho hộ ông Phạm Văn Thưởng (tức Phạm Đình Thưởng) theo Hợp đồng thế chấp bất động sản để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của người khác số 126/NT- HĐTC ngày 22/11/2012.
5. Về chi phí thẩm định tại chỗ: Ngân hàng thương mại cổ phần DA pH chịu 900.000 đồng chi phí thẩm định tại chỗ. Xác nhận Ngân hàng thương mại cổ phần DA đã nộp đủ chi phí thẩm định tài sản.
6. Về án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm:
Cụ Nguyễn Thị H được miễn án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm.
Bà Nguyễn Thị H không phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm. Trả lại cho bà Nguyễn Thị H 3.000.000 đồng án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm đã nộp tại biên lai số AA/2018/ 0006361 ngày 16/ 6/ 2020 tại chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Yên, tỉnh B.
Ông Tô Văn H và bà Khúc Thị T phải chịu 94.412.783 đồng án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm.
Ngân hàng thương mại cổ phần DA phải chịu 3.000.000 đồng án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 45.000.000 đồng đã nộp tại biên lai số AA/2018/ 0005894 ngày 02/ 8/2019 tại chi cục thi hành án dân sự huyện Tân Yên. Hoàn trả lại Ngân hàng thương mại cổ phần DA –chi nhánh B đại diện số tiền là 42.000.000 đồng đã nộp tại biên lai số AA/2018/ 0005894 ngày 02/ 8/2019 tại chi cục thi hành án dân sự huyện Tân Yên.
7. Về án phí Kinh doanh thương mại phúc thẩm:
Ngân hàng thương mại cổ phần DA không phải chịu án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm. Hoàn trả Ngân hàng thương mại cổ phần DA số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm 2.000.000 đồng đã nộp tại biên lại số AA/2020/ 0000279 ngày 29/4/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Yên, tỉnh B.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7,7a,7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án
Trên đây là những thông tin ACC muốn chia sẻ đến độc giả về bản án tuyên hợp đồng tín dụng vô hiệu. Trong quá trình tìm hiểu, nếu quý khách hàng có bất kỳ thắc mắc nào về bài viết hay cần hỗ trợ pháp lý vui lòng liên hệ với chúng tôi để được tư vấn và giải đáp.
Nội dung bài viết:
Bình luận