Tổng hợp một số Bản án thừa kế theo di chúc 2023

Cùng Công ty Luật ACC tìm hiểu Tổng hợp một số Bản án thừa kế theo di chúc 2023. Mời Quý độc giả theo dõi bài viết dưới đây.

Tổng hợp một số Bản án thừa kế theo di chúc 2022
Tổng hợp một số Bản án thừa kế theo di chúc 2023

1.Bản án thừa kế theo di chúc số 14/2017/DSST ngày 28/09/2017

Nội dung vụ án

Tại đơn khởi kiện ngày 13/6/2017, bản tự khai ngày 28/6/2017 và tại phiên tòa, nguyên đơn bà Hoàng Thị H trình bày: Bà và ông Hoàng Minh X kết hôn khoảng năm 1960, vợ chồng bà sinh được 04 người con là Hoàng Tuyết H, sinh năm 1965; Hoàng Hồng H1, sinh năm 1967; Hoàng Quốc H2, sinh năm 1973 và Hoàng Quốc H3, sinh năm 1974. Vợ chồng bà có khối tài sản chung là quyền sử dụng thửa đất số 76, tờ bản đồ số 18 ở khu 2, Thị trấn S, huyện C, tỉnh Phú Thọ diện tích đất là 967,4 m2 (trong đó: 200 m2 đất ở và 767,4 m2 đất vườn), 01 ngôi nhà xây cấp 4, bếp và công trình phụ, công trình chăn nuôi và các tài sản khác trên diện tích đất đã được Hội đồng thẩm định và định giá tài sản ngày 21/8/2017. Ngày 10/8/2015 bà và ông X cùng nhau lập di chúc chung của vợ chồng do ông X viết với nội dung: nếu ông X chết trước bà thì di chúc này sẽ giao lại cho bà quản lý sử dụng tài sản chung, khi bà chết sẽ giao lại cho con trai là Hoàng Hồng H1. Khi viết di chúc ông X hoàn toàn khỏe mạnh, minh mẫn, không bị ai ép buộc. Sau khi viết xong di chúc do ông X đi viện điều trị nên bản di chúc không được chứng thực. Đến ngày 12/01/2016 ông X chết, sau đó bà có họp gia đình để công bố di chúc, thì anh H cho rằng không phải chữ viết của ông X, nên gây khó khăn cho bà trong việc thay đổi nội dung di chúc. Vì chỉ có anh H1 trông nom bố mẹ lúc đau ốm, bà hiện nay tuổi cao, không con nào có trách nhiệm nên bà yêu cầu Tòa án công nhận di chúc của ông X để lại là hợp pháp, giải quyết cho bà thay đổi nội dung di chúc phần của bà và đề nghị Tòa án chia tài sản chung cho bà. Bà nhất trí các tài sản trên đất gồm: 01 ngôi nhà chính xây gạch chỉ, mái tôn diện tích 70,62 m2 trị giá 155.364.000đồng; 01 bếp lợp ploximang diện tích 15m2 trị giá 12.000.000đồng; sân lát gạch, mái tôn diện tích 62,13 m2 trị giá: 18.017.700đồng; Chuồng trại chăn nuôi diện tích 68,64 m2 trị giá 20.592.000đồng; Bờ rào xây gạch xỉ diện tích 240 m2 trị giá 12.000.000đồng và 967,4m2 đất tại khu 2 Thị trấn S, huyện C. Bà không yêu cầu Tòa án thẩm định, định giá tài sản nào khác.

Người có quyền lợi liên quan trình bày

– Anh Hoàng Quốc H2: Bố anh là Hoàng Minh X và mẹ anh là Hoàng Thị H có 04 người con như bà H đã trình bày. Bố mẹ anh có khối tài sản chung là quyền sử dụng thửa đất số 76, tờ bản đồ số 18 , diện tích 967,4m2 đất tại khu 2 Thị trấn S, huyện C và 01 ngôi nhà, bếp và công trình chăn nuôi. Toàn bộ tài sản đã được thẩm định và định giá tài sản. Anh nhất trí không ý kiến gì. Bà H xuất trình bản di chúc chung của vợ chồng do ông Hoàng Minh X viết, anh không nhất trí và không chấp nhận đó là di chúc hợp pháp của ông X, bà H. Nay ông X đã chết, yêu cầu được chia di sản thừa kế và anh xin được hưởng một phần di sản của ông X.

– Anh Hoàng Quốc H3: Anh xác định bố mẹ anh là ông Hoàng Minh X và bà Hoàng Thị H có 04 người con đẻ như anh H trình bày là đúng. Ông bà không có con riêng, con nuôi. Anh không công nhận bản di chúc bà H đã xuất trình là hợp pháp. Công nhận bố mẹ anh có khối tài sản như biên bản thẩm định và định giá ngày 21/8/2017. Anh không đồng ý chia tài sản của bố mẹ. Toàn bộ tài sản trên phải được để lại làm nơi thờ cúng.

– Anh Hoàng Hồng H1: Anh công nhận bố mẹ anh là ông X, bà H có 04 người con đẻ như bà H trình bày là đúng và công nhận ông bà có khối tài sản chung như biên bản thẩm định và định giá ngày 21/8/2017. Trước khi chết bố anh có để lại một bản di chúc chung của vợ chồng. Anh công nhận bản di chúc đó là hợp pháp. Anh đề nghị Tòa án giải quyết theo yêu cầu của mẹ anh. Anh không có yêu cầu gì về khối tài sản trên. Tại phiên tòa, bà H yêu cầu HĐXX công nhận bản di chúc do ông Hoàng Minh X viết ngày 10/8/2015 là hợp pháp. Bà không yêu cầu chia tài sản. Anh H và anh H giữ nguyên quan điểm như đã trình bày.

Nhận định của Toà án

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả thẩm tra tại phiên toà trên cơ sở xem xét, đánh giá đầy đủ và toàn diện chứng cứ, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Quan hệ pháp luật: Ông Hoàng Minh X và bà Hoàng Thị H là vợ chồng . Trong thời kỳ hôn nhân ông bà tạo dựng được khối tài sản chung như biên bản thẩm định ngày 21/8/2017. Tháng 01/2016 ông X chết và có để lại một bản di chúc chung của vợ chồng viết ngày 10/8/2015. Anh H, anh H2, anh H3 là con đẻ của ông X, bà H không công nhận di chúc trên là hợp pháp. Bà H khởi kiện và yêu cầu Tòa án công nhận di chúc chung của vợ chồng bà là hợp pháp. Yêu cầu khởi kiện của bà H phù hợp quy định tại chương XXII của Bộ luật dân sự năm 2015 về thừa kế theo di chúc và thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND huyện C, tỉnh Phú thọ.

[2] Ông Hoàng Minh X (chết tháng 01/2016 ) và bà Hoàng Thị H có 04 người con đẻ là anh Hoàng Tuyết H, Hoàng Hồng H1, Hoàng Quốc H2 và Hoàng Quốc H3. Ông bà không có con riêng, con nuôi. Ngày 10/8/2015 ông X viết di chúc chung của vợ chồng, bà H cùng ký với nội dung: “ Nay hai chúng tôi nhất trí giao lại căn nhà 4 gian , sân gạch, giếng nước ăn và toàn bộ tài trong nhà từ cái nhỏ nhất, đến cái to nhất cho con trai Hoàng Hồng H1 có số chứng minh nhân dân là số vì Hoàng Hồng H1 là người có công nuôi dưỡng cha mẹ trong khi ốm yếu. Khi cha mẹ qua đời H1 có trách nhiệm chôn cất và thờ cúng. Số đất thổ cư và vườn đổi H1 được hưởng thụ, còn những người con khác đã phân chia. Nay không có gì để cho. Vì bất hiếu với cha mẹ …. 5 Khi tôi ra đi trước vợ thì bản di chúc này sẽ giao lại cho vợ là Hoàng Thị H. Sau khi bà Hoàng Thị H mất sẽ giao cho con trai Hoàng Hồng H1 sẽ quản lý số đất của gia đình từ trong nhà đến ngoài đồng là H1 phải chịu trách nhiệm. Vậy kính mong UBND Thị trấn xác nhận”. Bản di chúc không có người làm chứng và không có xác nhận của UBND Thị trấn S, huyện C. Tuy nhiên bản di chúc này không được các anh Hoàng Tuyết H, Hoàng Quốc H2 và Hoàng Quốc H3 công nhận là di chúc hợp pháp. Điều 663 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: Di chúc chung của vợ chồng. Vợ, chồng có thể lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung. Ông X, bà H làm di chúc chung của vợ chồng thể hiện việc định đoạt tài sản chung phù hợp với điều luật nêu trên. Xét tính hợp pháp của bản di chúc không có chứng thực: Tại điều 630 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định di chúc hợp pháp: 1. Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây: a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép; b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật. …. 4. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này. Trong quá trình giải quyết vụ án, các bên đương sự thừa nhận ông X có tinh thần tỉnh táo, minh mẫn, không phải nằm điều trị cho đến thời điểm trước khi chết. Sự thừa nhận trên chứng tỏ vào thời điểm ông X viết bản di chúc còn khỏe mạnh, minh mẫn, không có sự ép buộc nào. Nội dung trong bản di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội phù hợp với quy định tại điều 630 Bộ luật dân sự năm 2015. Mặt khác, tại Kết luận giám định số 1700/KLGĐ ngày 28/8/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú thọ kết luận: Chữ ký dạng chữ viết “ X” và các chữ Hoàng Minh X trên “ Bản di chúc” ( tài liệu cần giám định ký hiệu A) so với chữ ký dạng chữ viết “ X” và các chữ Hoàng Minh X dưới mục “ Người xin; Đại diện gia đình; Người viết đơn ký tên; Người khai; Người làm đơn” trên “ Đơn xin trợ cấp; Biên bản xác nhận xây dựng nhà ở hoàn thành theo giai đoạn; Đơn đề nghị giải quyết chất độc da Cam; Bản khai cá nhân đề nghị hưởng chế độ trợ cấp một lần; Đơn xin vào Hội Cựu chiến Binh kết hợp sơ yếu lý lịch” ( tài liệu mẫu so sánh ký hiệu M1.M2.M3.M4.M5) là do cùng một người ký và viết ra. Quá trình giải quyết vụ án, anh H, anh H2 và anh H3 không đưa ra được bất cứ một chứng cứ nào chứng minh cho việc bản di chúc ngày 10/8/2015 không phải do 6 ông Hoàng Minh X viết. Từ những căn cứ nêu trên HĐXX chấp nhận yêu cầu của bà Hoàng thị H.

[3] Tài sản chung của ông Hoàng Minh X và bà Hoàng thị H gồm có: 01 ngôi nhà chính xây gạch chỉ, mái tôn diện tích 70,62 m2 trị giá 155.364.000đồng; 01 bếp lợp ploximang diện tích 15m2 trị giá 12.000.000đồng; sân lát gạch, mái tôn diện tích 62,13 m2 trị giá: 18.017.700đồng; Chuồng trại chăn nuôi diện tích 68,64 m2 trị giá 20.592.000đồng; Bờ rào xây gạch xỉ diện tích 240 m 2 trị giá 12.000.000đồng và quyền sử dụng diện tích 967,4m2 đất tại thửa số 76, tờ bản đồ số 18 ở khu 2 Thị trấn S, huyện C. Bà H và các anh H, H1, H2 và H3 công nhận có những tài sản trên và đã được thẩm định, định giá ngày 21/8/2017. Các đương sự không có ý kiến nào khác. Anh H, anh H2 yêu cầu được chia di sản của ông X và xin được hưởng kỷ phần. Xét yêu cầu của anh H, anh H2 là chính đáng. Tuy nhiên tài sản chung của ông X, bà H đã được định đoạt bằng di chúc chung của vợ chồng nên yêu cầu của các anh không được xem xét.

[4] Thu thập chứng cứ: Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án và các đương sự đã thu thập được những chứng cứ sau: Bản gốc di chúc viết ngày 10/8/2015, kết luận giám định số 1700/KLGĐ ngày 28/8/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú thọ, những văn bản do ông Hoàng Minh X viết để làm mẫu so sánh.

[5] Án phí: Theo quy định tại điểm đ khoản 1 điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 thì bà Hoàng Thị H thuộc trường hợp người cao tuổi nên không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Anh Hoàng Tuyết H, anh Hoàng Quốc H2 mỗi người phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm. Vì các lẽ trên. QUYẾT ĐỊNH: Áp dụng Điều 627, 630 Bộ luật dân sự năm 2015; khoản 1,5 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm đ khoản 1 Điều 12, điểm a khoản 7 điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án và Điều 26 Luật thi hành án dân sự. 1. Xử: Công nhận di chúc chung của ông Hoàng Minh X và bà Hoàng Thị H viết ngày 10/8/2015 là hợp pháp. Không chấp nhận yêu cầu của anh Hoàng Tuyết H và anh Hoàng Quốc H2 đòi chia di sản của ông Hoàng Minh X. 2.Bà Hoàng Thị H không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả cho bà Hoàng Thị H số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ ( Ba trăm nghìn đồng ) theo biên lai thu tiền số AA/2017/0002551 ngày 28/6/2017 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện C. Anh Hoàng Tuyết H, anh Hoàng Quốc H2 mỗi người phải chịu 300.000đ ( Ba 7 trăm nghìn đồng ) án phí dân sự sơ thẩm

Bố anh là ông Hoàng Minh X, mẹ anh là Hoàng Thị H. Bố mẹ anh có 04 người con chung gồm: Hoàng Hồng H1, Hoàng Quốc H2, Hoàng Quốc H3 và anh. Bố mẹ anh không có con riêng, con nuôi. Anh xác nhận bố mẹ anh có khối tài sản chung đã được Hội đồng định giá ngày 21/8/2017 như bà H trình bày là đúng. Bố anh chết tháng 01/2016, không có di chúc để lại. Quan điểm của anh: toàn bộ tài sản chung của bố mẹ phải để lại làm nơi thờ cúng, không được phân chia. Tại phiên tòa anh thay đổi quan điểm: xác định một nửa tài sản chung đó là của bà H. Nửa tài sản còn lại là di sản của ông X phải chia đều cho 05 phần (04 người con và bà H). Anh xin được hưởng kỷ phần của ông X bằng quyền sử dụng đất. Nếu bà H lấy phần 3 đất có ngôi nhà thì phải trả chênh lệch cho anh bằng quyền sử dụng đất. Còn về văn bản bà H cung cấp và cho rằng đó là di chúc của ông X bố anh để lại, quan điểm của anh đây không phải là chữ viết và chữ ký của bố anh nên không thể coi là di chúc hợp pháp. Nay Tòa án công khai kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ, anh không nhất trí. Nhưng anh cũng không có căn cứ gì chứng minh chữ viết Hoàng Minh X và chữ ký X không phải chữ ký, chữ viết của bố anh Hoàng Minh X.

2.Bản án 14/2018/DS-ST ngày 13/11/2018 về tranh chấp thừa kế theo di chúc

Bản án thừa kế theo di chúc
Bản án thừa kế theo di chúc

Nội dung vụ án

Trong đơn khởi kiện ngày 15/01/2018 và lời khai tại Toà án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị B trình bày: Bố chị là Nguyễn Đức H chết năm 1998, mẹ chị là Vi Thị K chết năm 2017. Bố mẹ chị sinh được sáu người con là Nguyễn Thị C, Nguyễn Thị M, Nguyễn Văn L (đã chết năm 2013- có con trai là Nguyễn Văn Đ); Nguyễn Văn T, Nguyễn Thị L. Bố mẹ chị được quyền sử dụng thửa đất số 283, tờ bản đồ 60, ở khu 13, xã Đ, huyện C, tỉnh Phú Thọ. Trước khi bố chị chết đã cho anh T một phần, còn lại đến năm 2010 mẹ chị được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 1447,2 m2. Sau khi mẹ chị được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không ai nói gì, năm 2012 mẹ chị tặng cho cháu Đ 581m2, còn lại 576,2 m2 (trong đó đất ở 80 m2, đất lâu năm khác 496, 2 m2).

Ngày 10/5/2016, mẹ chị tổ chức họp gia đình có mặt 5 người con và cháu Đ, ông Vi Văn T đại diện cho dòng họ V chứng kiến. Mẹ chị ý kiến ai nhận trách nhiệm nuôi dưỡng, chăm sóc lo tang lễ cho bà sau khi bà chết thì bà sẽ tặng cho diện tích đất còn lại nhưng không ai nhận, mẹ chị đã tuyên bố tặng toàn bộ phần diện tích đất còn lại là 576,2 m2 cho chị. Chị có trách nhiệm chăm sóc nuôi dưỡng bà lúc sống và lo tang lễ khi bà chết. Nhưng khi kết thúc cuộc họp chị C không nhất trí vì cháu Đ chưa nhận được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, còn cháu Đ không nói gì, không ký biên bản, còn lại mọi người đều ký.

Ngày 05/9/2016 mẹ chị đã đến UBND xã Đ lập di chúc với nội dung để lại cho chị toàn bộ diện tích đất 576,2 m2 cho chị sử dụng và khi bà qua đời các con không được tranh chấp, khi mẹ chị ra UBND xã Đ để lập di chúc chị đưa đi, mẹ chị vần khỏe mạnh minh mẫn, không bị ép buộc, bản di chúc đã được UBND xã chứng thực.Quá trình chung sống cùng chị từ năm 2012 đến khi mẹ chị chết, chị chăm sóc cho bà, lo tang lễ chu đáo khi bà chết. Sau khi mẹ chị chết ngày 18/8/2017 chị đề nghị họp gia đình để mở di chúc nhưng không ai họp chỉ có chị và chị L. Ngày 01/11/2017 chị đã đề nghị UBND xã Đ mở di chúc, UBND xã Đ mở di chúc có 4 anh em và cháu Đ, anh T đến nhưng không tham dự và bỏ về, Cháu Đ, bà M, bà C không đồng ý với nội dung di chúc của mẹ chị, nên chị không thực hiện được việc thừa kế theo di chúc. Nay chị yêu cầu Tòa án công nhận di chúc của mẹ chị là Vi Thị K để lại là hợp pháp, để chị được thừa kế toàn bộ diện tích đất theo di chúc mà mẹ chị để lại, diện tích đất thực tế còn lại bao nhiêu chị nhận bấy nhiêu.

Bị đơn chị Nguyễn Thị M, chị Nguyễn Thị C và người có quyền lợi liên quan là anh T trình bày: Nguyễn Đức H, bà Vi Thị K là bố mẹ các chị , ông, bà sinh được 6 người con là: C. M, L, L, T, B, năm 1998 ông H chết, năm 2017 bà K chết. Ông H, bà K để lại thửa đất 238, tờ bản đồ 60, diện tích 1447,2 m2, năm 2012, chị Nguyễn Thi B ly hôn chồng về ở với mẹ và anh em tại xã Đ, anh em đã họp gia đình thống nhất cho chị B 290 m2 đất, ngày 05/9/2014 gia đình họp cho thêm chị B 0,5m đất để làm lối đi còn lại để cho cháu Đ. Sau khi bà K chết, anh chị em phát sinh mâu thuẫn, chị B xây tường rào, sát đầu đốc nhà cháu Đ, chị em đến can thiệp thì chị B mới dừng lại. Việc bà K cho cháu Đ bao nhiêu đất, cho khi nào thì các chị không biết, chỉ đến khi mâu thuẫn các anh chị em trong nhà đề nghị đến chính quyền địa phương giải quyết thì khi đó UBND xã Đ mới thông báo bà K cho cháu Đ đất, chị B nói bà K có di chúc cho chị B toàn bộ diện tích đất còn lại thì khi đó các chị mới biết, nhưng không nhất trí với bản di chúc của bà K để lại cho chị B toàn bộ diện tích đất.

Nay chị B yêu cầu Tòa án xém xét công nhận di chúc của bà K là hợp pháp để chị B được quyền thừa kế toàn bộ tài sản theo di chúc, thì các chị không nhất trí, mà đề nghị Tòa án giải quyết theo biên bản họp gia đình ngày 05/9/2014, còn các chị từ chối nhận tài sản do mẹ chị để lại, phần đất còn lại để cho cháu Đ ½ và chị B ½.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là chị L trình bày:

Chị L hoàn toàn nhất trí với lời trình bày của chị B, việc mẹ chị có để lại di chúc cho chị B được thừa kế toàn bộ tài sản chị không có ý kiến gì, vì chị B đã thực hiện đúng theo như nội dung bản di chúc mẹ chị để lại. -UBND xã Đ trình bày: Ngày 05/9/2016, bà Vi Thị K được con gái là chị Nguyễn Thị B đưa đến UBND xã Đ để chứng thực di chúc. Di chúc bà K lập ngày 05/9/2016 là hai bản đánh máy do bà Ké mang đến UBND xã yêu cầu chứng thực di chúc. Sau khi kiểm tra bản di chúc chúng tôi nhận thấy nội dung bản di chúc không trái pháp luật, bà K tình trạng sức khỏe bình thường, tinh thần minh mẫn, tỉnh táo, tự nguyện, không bị ép buộc. Sau khi chứng thực xong UBND xã lưu một bản, còn một bản giao cho bà K lưu giữ tại gia đình. Di chúc được UBND xã Đ chứng thực và vào sổ số 03, quyền 01 được lưu giữ tại UBND xã Đồng L, huyện C. -UBND huyện C, UBND xã Đ trình bày: Hộ bà Vi Thị K được UBND huyện S (nay là UBND huyện C) cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số R062149 vào sổ số H00842, cấp ngày 26/9/2000, tại thửa 46, tờ bản đồ 27, diện tích 2000 m2 (trong đó, đất ở 400m2, đất vườn 1600 m2). Năm 2005 bà K có đơn xin thừa kế đất cho con trai là Nguyễn Văn T 352 m2 (trong đó đất ở 130 m2, đất vườn: 222 m2) đã được UBND huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 29/3/2006. Năm 2006 bà K chuyển nhượng một phần đất cho ông Cao Văn C, ở khu 11, xã Đ, diện tích 384 m2 ( trong đó đất ở 120 m2, đất vườn: 264 m2) đã được UBND huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 29/3/2006. Diện tích đất còn lại của bà K là 1114 m2.

Năm 2009 thực hiện việc cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên địa bàn xã Đ, bà Vi Thị K đã kê khai cấp đổi và được UBND huyện C cấp đổi tại thửa số 283, tờ bản đồ 60, diện tích 1447,2 m2 (đất ở 150 m2, đất vườn: 1297 m2). Năm 2012 bà K tặng cho con gái là Nguyễn Thị B, ở khu 13, xã Đ, diện tích 290 m2 (trong đó, đất ở 70 m2, đất vườn 220 m2) đã được UBND huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 28/12/2012.

Năm 2015, bà K tách một phần diện tích tặng cho cháu nội là anh Nguyễn Văn Đ, diện tích 581 m2 toàn bộ là đất vườn. đã được UBND huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 29/10/2015 (anh Đ chưa nhận giấy chứng nhận quyền sử dụng đất). Diện tích đất còn lại là 576,2 m2 (trong đó đất ở 80 m2, đất vườn 496,2 m2).

Xử:

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện chị Nguyễn Thị B về việc yêu cầu công nhận bản di chúc lập ngày 05/9/2016 của cụ Vi Thị K là hợp pháp. Chị Nguyễn Thị B được quyền sử dụng thửa đất số 283, tờ bản đồ số 60, diện tích 345,4 m2, tại khu 13, xã Đ huyện C, tỉnh Phú Thọ.

- Về án phí: Yêu cầu của chị B được chấp nhận nên chị B không phải chịu án phí dân sư sơ thẩm.

Chị Nguyễn Thị M, Nguyễn Thị C phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Nhận định của Toà án

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét, đánh giá đầy đủ và toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

Xét yêu cầu của chị B thì thấy: Bà Vi Thị K được UBND huyện S (nay là UBND huyện C) cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 26/9/2000, tại thửa 46, tờ bản đồ 27, diện tích 2000 m2. Năm 2005 bà K cho con trai là Nguyễn Văn T 352 m2, đã được UBND huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 29/3/2006. Năm 2006 bà K chuyển nhượng một phần đất cho ông Cao Văn C, ở khu 11, xã Đ, diện tích 384 m2, đã được UBND huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 29/3/2006. Diện tích đất còn lại của bà K là 1114 m2.

Năm 2009 thực hiện việc cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên địa bàn xã Đ, bà Vi Thị K đã kê khai cấp đổi và được UBND huyện C cấp đổi tại thửa số 283, tờ bản đồ 60, diện tích 1447,2 m2. Năm 2012 bà K tặng cho con gái là Nguyễn Thị B, ở khu 13, xã Đ, diện tích 290 m2 ,đã được UBND huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 28/12/2012.

Năm 2015, bà K tách một phần diện tích tặng cho cháu nội là anh Nguyễn Văn Đ, diện tích 581 m2 (toàn bộ là đất vườn), đã được UBND huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 29/10/2015 (anh Đ chưa nhận giấy chứng nhận quyền sử dụng đất). Diện tích đất còn lại là 576,2 m2. Ngày 05/9/2016 bà Vi Thị K đến UBND xã Đ chứng thực di chúc với nội dung để lại toàn bộ diện tích đất còn lại là 576,2 m2 (đo thực tế còn lại là 345,4 m2) cho con gái là Nguyễn Thị B. Ngày 02/8/2017 bà K chết, sau khi bà K chết chị B đã yêu cầu UBND xã Đ mở di chúc để chị thực hiện quyền của mình nhưng bà M, bà C, anh Th, anh Đ không đồng ý với bản di chúc của cụ K nên chị không thực hiện được quyền của chị. Quá trình thu thập chứng cứ tại địa phương cho thấy: Bà Vi Thị K đến UBND xã Đ trong tình trạng sức khỏe bình thường, tinh thần minh mẫn tỉnh táo, việc xác lập di chúc của bà là hoàn toàn tự nguyện, không ai ép buộc. Việc chứng thực di chúc của bà Vi Thị K UBND xã Đ đã thực hiện đúng quy định của pháp luật. Nên chị Nguyễn Thị B được hưởng tài sản của bà K để lại là có căn cứ chấp nhận. Quá trình giải quyết tại Tòa án chị Nguyễn Thị B có quan điểm diện tích đất đo đạc thực tế còn lại của bà Vi Thị K còn bao nhiêu thì chị xin sử dụng bấy nhiêu.Quá trình xem xét thẩm định thực tế còn lại là 345,4 m2 (trong đó đất ở 80 m2, đất trồng cây lâu năm khác 265,4 m2) việc có sư chênh lệch là do sai số đo đạc.

Còn về phía chị M, chị C, anh T không công nhận bản di chúc mà bà K đã để lại cho chị B vào ngày 05/9/2016 là không có căn cứ. Bởi lẽ, bản di chúc đã được UBND xã Đ chứng thực đúng quy định của pháp luật, bà K khi lập di chúc sức khỏe bình thường, tình thần minh mẫn, tự nguyện, không bị ép buộc, do đó bản di chúc là hợp pháp, hơn nữa điều này đã được khẳng định tại kết luận giám định số: 976/TL-KLGĐ/PC09 ngày 02 tháng 10 năm 2018 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Phú Thọ, khẳng định “Chữ ký dạng chữ viết “K” và các chữ “Vi Thị K” trên di chúc, đề ngày 05/9/2016 so với chữ ký, chữ viết “Vi Thị K” trong sổ chứng thực di chúc, mở ngày 15/01/2016 của UBND xã Đ, là do cùng một người viết ra”.

Biên bản họp gia đình ngày 05/9/2014, mặc dù có chữ ký của cụ Vi Thị K nhưng không hợp pháp bởi lẽ, khi còn sống bà K có quyền định đoạt, thay đổi ý chí của bà trong việc tặng cho tài sản của mình cho ai, trong đó thể hiện việc bà đã tặng cho con trai là anh Nguyễn Văn T, cháu nội là anh Nguyễn Văn Đ, con gái chị Nguyễn Thị B một phần diện tích đất, ngày 05/9/2016 cụ đã viết di chúc và để lại phần tài sản còn lại của bà cho chị Nguyễn Thị B với điều kiện khi bà còn sống thì chăm sóc, khi chết thì lo tang ma cho bà, điều này là hoàn toàn có căn cứ. Do đó chị Nguyễn Thị B được quyền sử dụng thửa đất số 283, tờ bản đồ số 60, diện tích 345,4 m2, tại khu 13, xã Đ huyện C, tỉnh Phú Thọ, trên đất có 02 cây Xoài, 50 m tường rào chị B xây.

Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã triệu tập anh Nguyễn Văn Đ nhiều lần nhưng anh Đ đều không có mặt, qua xác minh của UBND xã Đ cho biết anh Đ đi làm ăn xa, khi đi cũng không xin giấy tạm vắng của xã nên địa phương không biết anh Đ đi đâu làm gì. Do đó Tòa án không lấy được lời khai của anh Đ.

Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa là đúng theo quy định của pháp luật cần chấp nhận.

Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện được chấp nhận chị Nguyễn Thị B không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Chị Nguyễn Thị M, Nguyễn Thị C phải chịu án phí dân sư sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Về chi phí tố tụng: Chị Nguyễn Thị M, Nguyễn Thị C phải chịu chi phí xem xét thẩm định, định giá tài sản, giám định chữ viết.

Trên đây toàn bộ nội dung bài viết Tổng hợp một số Bản án thừa kế theo di chúc 2022. Công ty Luật ACC luôn sẵn sàng giải đáp thắc mắc của Quý bạn đọc về thừa kế theo di chúc. Xem thêm bài viết về các chủ đề khác của của chúng tôi tại đây. Trân trọng !

Công ty Luật ACC tự hào là đơn vị hàng đầu hỗ trợ mọi vấn đề liên quan đến pháp lý, tư vấn pháp luật, thủ tục giấy tờ cho khách hàng là cá nhân và doanh nghiệp trên Toàn quốc với hệ thống văn phòng tại các thành phố lớn và đội ngũ cộng tác viên trên tất cả các tỉnh thành: Hà Nội, TP. HCM, Bình Dương, TP. Cần Thơ, TP. Đà Nẵng và Đồng Nai. Liên hệ với chúng tôi ngay hôm nay để được tư vấn và hỗ trợ kịp thời.

Tư vấn: 1900.3330

Zalo: 084.696.7979

Fanpage: : ACC Group – Đồng Hành Pháp Lý Cùng Bạn

Mail: [email protected]

Cảm ơn Quý đọc giả đã tham khảo bài Tổng hợp một số Bản án thừa kế theo di chúc 2022.Trân trọng cảm ơn !

Nội dung bài viết:

    Đánh giá bài viết: (1021 lượt)

    Để lại thông tin để được tư vấn

    Họ và tên không được để trống

    Số điện thoại không được để trống

    Số điện thoại không đúng định dạng

    Email không được để trống

    Vấn đề cần tư vấn không được để trống

    Bài viết liên quan

    Phản hồi (0)

    Hãy để lại bình luận của bạn tại đây!

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo