Một số án lệ về tội gây rối trật tự công cộng

Trong đời sống ngày nay, các tội phạm liên quan đến việc gây rối trật tự công cộng đang rất phổ biến và được thực hiện bằng nhiều hình thức khác nhau. Hành vi này để lại hậu quả vô cùng nghiêm trong cho cá nhân và toàn xã hội. Vậy, án lệ về tội gây rối trật tự công cộng là như thế nào? Hãy cùng theo dõi bài viết bên dưới của ACC để được giải đáp thắc mắc và biết thêm thông tin chi tiết về án lệ về tội gây rối trật tự công cộng

Gay Mat Trat Tu Tai Co Quan Nha Nuoc Xu Phat The Nao

Án lệ về tội gây rối trật tự công cộng

1. Gây rối trật tự công cộng là gì?

Trước khi tìm hiểu án lệ về tội gây rối trật tự công cộng chủ thể cần nắm được khái niệm, được giải đáp như sau:

Gây rối trật tự công cộng là hành vi vi phạm quy tắc xử sự được đặt ra cho mỗi công dân ở nơi công cộng, xâm phạm tình trạng ổn định trong sinh hoạt chung của xã hội. Là các hành vi xâm phạm đến con người, đến quyền hoặc lợi ích hợp pháp của họ hoặc xâm hại đến quyền sở hữu và diễn ra tại nơi công cộng.

Hành vi này diễn ra ở tại nơi công cộng, nơi các hoạt động xã hội được diễn ra thường xuyên và có thể xâm phạm trực tiếp đến sức khỏe, tính mạng, danh dự, tài sản của con người.

Biểu hiện của hành vi gây rối trật tự công cộng cụ thể như sau:

- Cử chỉ, lời nói thiếu văn hóa, xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm của một hoặc nhiều người;

- Có hành vi phá phách hoặc làm ô uế các công trình, thiết bị ở nơi công cộng;

- Tụ tập, hò hét, đua xe trái phép;

- Hành hung người làm nhiệm vụ hoặc người tự nguyện tham gia bảo vệ trật tự nơi công cộng;

- Tụ tập ẩu đả, đánh nhau ở nơi công cộng…

Dấu hiệu pháp lý của tội gây rối trật tự công cộng:

Chủ thể

Án lệ về tội gây rối trật tự công cộng không phải chủ thể đặc biệt, chỉ cần người có hành vi gây rối trật tự công cộng đủ độ tuổi chịu trách nhiệm và có năng lực trách nhiệm hình sự đều có thể là chủ thể của tội phạm này.

Theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự thì chỉ người đủ 16 tuổi trở lên mới là chủ thể của tội phạm này, vì tội phạm này không có trường hợp nào là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Nếu hành vi gây rối trật tự công cộng chưa gây ra hậu quả nghiêm trọng thì người có hành vi chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu người đó đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm

Khách thể

Đối với khách thể của tội gây rối trật tự công cộng là tội phạm xâm phạm đến trật tự an ninh xã hội, cuộc sống sinh hoạt ổn định của cộng đồng. Ngoài ra còn xâm phạm đến các hoạt động đi lại, làm việc, vui chơi nguyên tắc an toàn nơi công cộng tại nơi có nhiều người qua lại, đồng thời xâm phạm đến sức khỏe, tài sản của những người xung quanh. Hành vi này cũng làm ảnh hưởng đến việc thực hiện những đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước trong quá trình ổn định đời sống của người dân.

Mặt khách quan

 Hành vi khách quan: Người phạm tội thực hiện hành vi gây rối bằng nhiều phương thức khác nhau như: Dùng vũ khí, hung khí hoặc có hành vi phá phách; gây cản trở giao thông nghiêm trọng hoặc gây đình trệ hoạt động công cộng;hành hung người can thiệp bảo vệ trật tự công cộng; đập phá các công trình ở nơi công cộng. v.v…

Khi xác định hành vi gây rối trật tự cần phải phân biệt với hành vi tuy có gây rối trật tự công cộng nhưng đã cấu thành một tội khác thì người có hành vi gây rối chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm tương ứng mà họ đã thực hiện, mà không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội gây rối trật tự công cộng.

Hậu quả: Hậu quả của hành vi gây rối trật tự công cộng là thiệt hại vật chất và phi vật chất được xác định là nghiêm trọng cho xã hội. Hậu quả vừa là dấu hiệu bắt buộc, vừa không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này.

Hậu quả là dấu hiệu bắt buộc nếu người phạm tội chưa bị xử phạt hành chính về hành vi gây rối trật tự công cộng hoặc chưa bị kết án về tội này hoặc tuy đã bị kết án về tội này nhưng đã được xoá án tích.

Hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc nếu người phạm tội đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm.

Mặt chủ quan

Đối với mặt chủ quan của tội phạm này thì chủ thể có hành vi vi phạm có đầy đủ năng lực hành vi  biết rõ hành vi của mình sẽ ảnh hưởng đến trật tự an ninh xã hội, lối sống lành mạnh ổn định của xã hội nhưng vẫn thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp.

Về các mức xử phạt về tội gây rối trật tự công cộng theo quy định của pháp luật:

Khung hình phạt thứ nhất quy định ở khoản 1 điều 318 Bộ luật hình sự quy định về mức phạt bao gồm các hình thức về xử phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ và mức phạt tù. Theo đó nếu đối tượng nào có hành vi vi phạm pháp luật về tội cố ý gây rối trật tự nơi đông người sẽ phạt tiền từ 5 triệu đến dưới 50 triệu, ngoài ra nếu hậu quả của hành vi nghiêm trọng hơn thì có thể bị phạt đến 2 năm cải tạo không giam giữ hay các mức hình phạt tù đến 2 năm tù..

Khung hình phạt thứ hai quy định ở khoản 2 điều 318 Bộ luật hình sự quy định về khung hình phạt tù ở mức từ 2 năm tù đến 7 năm tù. Đây là khung hình phạt áp dụng cho các trường hợp vi phạm có các tình tiết tăng nặng kèm theo, gây ra hậu quả cho xã hội với mức độ nghiêm trọng hơn ở khoản 1. Theo đó các đối tượng có hành vi gây rối làm mất trật tự an ninh công cộng, ảnh hưởng xấu tới đời sống sinh hoạt của người dân với tính chất có tổ chức, tụ tập đông người để cùng quấy rối hay đối tượng vi phạm có sử dụng những vũ khí có khả năng gây nguy hiểm cho sức khỏe tính mạng của người khác. Người có hành vi vi phạm có những sự lôi kéo người khác cùng gây rối, phá phách tại nơi công cộng…là những tình tiết tăng nặng để bị truy cứu ở khoản 2 điều 318 Bộ luật hình sự.

2. Mức xử phạt dành cho tội gây rối trật tự công cộng

Mức xử phạt dành cho tội gây rối trật tự công cộng là vấn đề cần thiết khi tìm hiểu án lệ về tội gây rối trật tự công cộng.

Tội gây rối trật tự công cộng được quy định tại Điều 318 Bộ luật hình sự như sau:

“Điều 318. Tội gây rối trật tự công cộng

Người nào gây rối trật tự công cộng gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Dùng vũ khí, hung khí hoặc có hành vi phá phách;
c) Gây cản trở giao thông nghiêm trọng hoặc gây đình trệ hoạt động công cộng;
d) Xúi giục người khác gây rối;
đ) Hành hung người can thiệp bảo vệ trật tự công cộng;

e) Tái phạm nguy hiểm.”

3. Án lệ về tội gây rối trật tự công cộng

Án lệ về tội gây rối trật tự công cộng cụ thể như sau:

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 128/2022/HS-ST NGÀY 04/05/2022 VỀ TỘI GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG

Ngày 04 tháng 5 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 76/2022/TLST-HS ngày 04 tháng 3 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 117/2022/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo:

Lê Đức H, sinh năm 1992 tại Thanh Hóa. Nơi ĐKHKTT: Ấp x, xã HP, huyện BĐ, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Đức X và bà Nguyễn Thị S; có vợ tên Lê Thanh X1 và 02 người con, con lớn sinh năm 2015, con nhỏ sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt theo quyết định truy nã và tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/10/2021, có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Tuấn T, sinh năm 1985, nơi đăng ký thường trú: Y, khu phố TP, phường TB, thành phố DA, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

Người làm chứng:

- Ông Trương Văn L, sinh năm 1995. Vắng mặt.

- Ông Trần Văn Ng, sinh năm 1998. Vắng mặt.

- Bà Phạm Thị H1, sinh năm 1974. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Đức H làm nghề cơ khí. Vào khoảng cuối năm 2019, H có làm chòi, hàng rào, mái nhà cho Nguyễn Tuấn T tại địa chỉ Y, khu phố TP, phường TB, thành phố DA, tỉnh Bình Dương. Sau khi làm công trình xong, T chậm trễ thanh toán tiền công cho H nên giữa H và T nhắn tin cãi nhau qua lại trên mạng xã hội Facebook. Khoảng 07 giờ 30 phút ngày 08/02/2022, T tìm đến phòng trọ của H tại khu phố Tân Phước, phường Tân Bình, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương để nói chuyện nhưng H sợ bị đánh nên đóng cửa ở trong phòng trọ, T ở ngoài đập cửa phòng chửi bới một lúc thì bỏ đi. Lúc này, H tức giận nên gọi điện cho đối tượng tên Hào (chưa rõ nhân thân, địa chỉ) rủ Hào đi tìm T để nói chuyện giải quyết mâu thuẫn thì Hào đồng ý. Hào rủ thêm 06 đối tượng khác (chưa rõ nhân thân, địa chỉ) là bạn của Hào điều khiển xe môt tô (không rõ biển số) cùng đi đến phòng trọ chở H đi cùng; đồng thời lúc này H gọi điện cho T và hẹn T đến đường D1, đoạn trước khách sạn Thiên Toàn Lợi thuộc khu dân cư Việt Sing, khu phố 4, phường An Phú, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương để nói chuyện giải quyết mâu thuẫn thì T đồng ý.

Đến khoảng 08 giờ 30 phút ngày 08/02/2020, nhóm của H sử dụng 04 chiếc xe mô tô đi đến địa điểm đã hẹn gặp thì thấy T đang đứng một mình trên đường D1, khu dân cư Việt Sing, khu phố 4, phường An Phú, thành phố Thuận An. H xuống xe đi lại nói chuyện với T, hai bên xảy ra cự cãi, H lấy 01 con dao thái lan bằng kim loại mang theo sẵn trong túi quần ra, thấy vậy T quay lưng lại định bỏ chạy thì bị H đâm 01 nhát vào vùng lưng và làm rớt con dao xuống đường, trong lúc giằng co T nhặt lại con dao bị rơi của H và đâm 01 cái vào vùng ngực trái của H. Thấy H bị đâm, nhóm bạn của H dùng hung khí là mã tấu mang theo đuổi theo chém T, lúc này H cũng sử dụng 01 con dao tự chế lấy ở chỗ nhóm H mang theo chạy theo T chém 01 nhát trúng vào nón bảo hiểm T đang đội, chém 02 nhát trúng tay trái T. T vừa chạy lùi vừa tấn công chống đỡ lại nhóm của H và dùng dao thái lan chém 01 nhát từ trên xuống trúng vào má bên trái của H, hai bên rựợt đuổi nhau qua lại. Do nhóm của H đông người nên T bỏ chạy thì bị té ngã xuống đường, nhóm của H chạy tới chỗ T thì nghe người dân đi đường tri hô có Công an tới, cả nhóm lên xe bỏ chạy khỏi hiện trường. Sau vụ việc H và T bỏ đi đâu không rõ, không hợp tác với Cơ quan điều tra để điều tra làm rõ nội dung vụ việc. Đến khoảng 09 giờ 30 phút, cùng ngày 08/02/2022, ông Trương Văn L là người dân đã chứng kiến sự việc trên đến Công an phường An Phú trình báo sự việc, Công an phường An Phú chuyển hồ sơ đến Công an thành phố Thuận An để giải quyết theo quy định. Vật chứng của vụ án không thu giữ được.

Ngày 01/4/2020, Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường An Phú, thành phố Thuận An đã có Công văn số 215 về việc đề nghị xử lý hành vi gây mất trật tự an toàn trị an tại địa phương, gây hoang mang lo lắng cho người dân đang làm ăn, sinh sống, đi ngang qua lại vào ngày 08/02/2022 trên tuyến đường D1 thuộc khu dân cư Việt Sing, khu phố 4, phường An Phú, thành phố Thuận An do các đối tượng (chưa rõ nhân thân, địa chỉ) thực hiện. Ngày 11/6/2020, Cơ quan Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thuận An ra Quyết định khởi tố vụ án, Quyết định khởi tố bị can đối với Lê Đức H về tội: Gây rối trật tự công cộng, quy định tại khoản 2 Điều 318 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Quá trình điều tra xác định H bỏ trốn nên ngày 12/12/2020 Cơ quan điều tra ra Quyết định truy nã bị can đến ngày 09/10/2022 bắt được Lê Đức H khi đang trốn tại phường Trảng Dài, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

Bản Cáo trạng số 79/CT-VKS-TA ngày 02/3/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo Lê Đức H về tội gây rối trật tự công cộng theo điểm b khoản 2 Điều 318 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Sau đây gọi là Bộ luật Hình sự).

Tại phiên tòa:

Kiểm sát viên giữ quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố như nội dung Cáo trạng và đề nghị áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51; điểm b khoản 2 Điều 318 của Bộ luật Hình sự xử phạt Lê Đức H mức hình phạt từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.

Bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi như nội dung cáo trạng đã truy tố. Trong phần trình bày lời nói sau cùng, bị cáo nhận thấy hành vi của mình là sai trái, ăn năn hối cải; bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An truy tố về tội gây rối trật tự công cộng theo điểm b khoản 2 Điều 318 của Bộ luật Hình sự. Do đó, Tòa án nhân dân thành phố Thuận An thụ lý là đúng thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 268 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong các giai đoạn tố tụng từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc việc truy tố, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, cán bộ điều tra, Kiểm sát viên đều thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng không khiếu nại, tố cáo về các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thống nhất thừa nhận: Do có mâu thuẫn trong việc thanh toán tiền nên H và T hẹn nhau đến đoạn đường D1 thuộc khu dân cư VSIP1 để nói chuyện. Khi đi H gọi điện rủ Hào và mấy người bạn của Hào (không rõ lai lịch) mang theo hung khí là dao tự chế đến địa điểm đã hẹn để gặp T. Khi gặp nhau H sử dụng dao thái lan để sẵn trong túi quần đâm vào lưng của T và làm rơi dao. T nhặt được con dao này sau đó quay lại đánh nhau với H thì Hào và những người bạn của Hào sử dụng dao tự chế chém T, những người này cũng đưa cho H một con dao tự chế để chém T. Sự việc xảy ra làm người dân xung quanh và những người đang lưu thông trên đường hoảng sợ, ảnh hưởng lớn đến an ninh trật tự tại khu vực.

[3] Về lỗi của bị cáo: Khi bị cáo rủ đối tượng Hào cùng những người bạn của Hào chuẩn bị hung khí để đi gặp nói chuyện, giải quyết mâu thuẫn và đánh, chém T, bị cáo biết hành vi của mình là sai, vi phạm pháp luật, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội nhưng vẫn thực hiện. Sau khi thực hiện hành vi nêu trên, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã gây khó khăn cho hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra. Lỗi của bị cáo là cố ý trực tiếp.

[4] Từ những nhận xét nêu trên có đủ cơ sở kết luận: Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An truy tố bị cáo về tội gây rối trật tự công cộng quy định tại điểm b khoản 2 Điều 318 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Hành vi của bị cáo thể hiện ý thức xem thường pháp luật, xâm phạm đến trật tự, an toàn xã hội, xâm phạm đến sức khỏe của người khác, làm mất an ninh, trật tự tại địa phương, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân. Vì vậy, việc truy tố và đưa bị cáo ra xét xử là cần thiết, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ để răn đe, giáo dục bị cáo và răn đe các đối tượng khác.

[5] Đối với đối tượng tên Hào và những người bạn của Hào hiện chưa rõ nhân thân, lai lịch. Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, điều tra khi nào có căn cứ sẽ xử lý sau.

[6] Đối với hành vi của Nguyễn Tuấn T, Công an thành phố Thuận An đã ra quyết định xứ lý vi phạm hành chính là đúng quy định. Sau khi sự việc xảy ra, Nguyễn Tuấn T bỏ đi khỏi địa phương và hiện không rõ đang cư trú tại đâu.

[7] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[8] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau phạm tội bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. ngoài ra, bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị cáo là lao động chính trong gia đình, các con hiện nay còn nhỏ, con lớn sinh năm 2015, con nhỏ sinh năm 2018 nên Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[9] Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An đề nghị xử phạt bị cáo mức hình phạt nêu trên là có căn cứ, phù hợp với tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo nên được chấp nhận.

[10] Về trách nhiệm dân sự: Ông Nguyễn Tuấn T từ chối giám định thương tích và không yêu cầu bị cáo bồi thường nên không xem xét.

[11] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Đối với các hung khí bị cáo và các đối tượng sử dụng khi thực hiện hành vi phạm tội không thu hồi được nên không có căn cứ xứ lý.

[12] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa XIV quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

  1. Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố bị cáo Lê Đức H phạm tội gây rối trật tự công cộng.

Xử phạt bị cáo Lê Đức H 02 (Hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 09/10/2021.

  1. Về án phí: Bị cáo Lê Đức H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
  2. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết.

Những vấn đề có liên quan đến án lệ về tội gây rối trật tự công cộng và những thông tin cần thiết khác đã được trình bày cụ thể và chi tiết trong bài viết. Khi nắm được thông tin về án lệ về tội gây rối trật tự công cộng sẽ giúp chủ thể nắm được vấn đề một cách chính xác và rõ rang hơn.

Nếu quý khách hàng vẫn còn thắc mắc liên quan đến án lệ về tội gây rối trật tự công cộng cũng như các vấn đề có liên quan, hãy liên hệ ngay với ACC.

Công ty luật ACC chuyên cung cấp các dịch vụ tư vấn pháp lý đáp ứng nhu cầu của khách hàng trong thời gian sớm nhất có thể.

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo