Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa là gì? - Luật ACC

Các nguyên tắc cơ bản của luật hình sự Việt Nam là những tư tưởng chủ đạo xuyên suốt quá trình xây dựng và áp dụng pháp luật hình sự trong công cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.

Nghiên cứu quy định của Bộ luật Hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đặc biệt là quy định thuộc các điều 2, 3, 4, 8 cho thấy rằng Luật Hình sự Việt Nam có các nguyên tắc cơ bản sau đây:

- Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa:

1. Khái niệm pháp chế xã hội chủ nghĩa

Pháp chế xã hội chủ nghĩa là sự tôn trọng, tuân thủ, chấp hành nghiêm chỉnh hiến pháp, pháp luật của các cơ quan, nhân viên nhà nước, của các tổ chức xã hội và mọi công dân.

Chính phủ (thời kì trong Chính phủ chưa có Bộ Tư pháp), Vụ pháp chế của các bộ, cơ quan ngang bộ; Ban pháp chế, phòng pháp chế, cán bộ pháp chế Một nguyên tắc cơ bản ở tầm hiến định được ghi nhận tại Điều 12 Hiến pháp năm 1992.

Nhà nước quản Ií xã hội bằng pháp luật, không ngừng tàng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Các cơ TP n nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ Đang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật, đấu tranh phòng ngửa và chống các tội phạm, các ví phạm Hiến pháp và pháp luật.

Mọi hành động xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân đều bị xử lí theo pháp luật. Nội dung của quy định đã bao hàm khá đẩy đủ các phương diện của pháp chế xã hội chủ nghĩa.

Pháp chế xã hội chủ nghĩa tiếng anh là Legal socialist”.

2. Nguồn gốc ra đời pháp chế xã hội chủ nghĩa

Pháp chế xã hội chủ nghĩa ra đời cùng với sự ra đời của nhà nước chuyên chính vô sản. Phải có luật, trước hết phải có luật, hệ thống pháp luật đầy đủ, hoàn chỉnh mới có thể gọi là pháp quyền, khi việc tôn trọng pháp luật, tuân thủ pháp luật và chấp hành pháp luật trở thành yêu cầu, có tính nguyên tắc yêu cầu bảo đảm mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân đều biết và phải đứng trước pháp luật, tôn trọng, chấp hành và chấp hành pháp luật trên cơ sở bình đẳng cho mọi người, không ai có quyền coi thường, chấp hành hoặc không chấp hành luật. Vì vậy, pháp luật và pháp chế không phải là một mà có mối quan hệ mật thiết với nhau. Pháp luật phải được ban hành toàn bộ, và luật không thể được ban hành trừ khi chúng được tuân thủ và tuân thủ nghiêm ngặt. Tuy nhiên, nó không phải là một hệ thống pháp luật, chỉ khi có các quy định đầy đủ, đầy đủ và được tuân thủ chặt chẽ, triệt để thì mới có pháp luật, mà phải là pháp luật ghi nhận mọi quyền cơ bản của công dân, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. quyền dân chủ của cá nhân được đưa vào hệ thống pháp luật, với các cơ chế sẵn có để đảm bảo rằng mọi người đều được tôn trọng và tuân theo. Ngoài ra, pháp luật gắn liền một cách hữu cơ với hệ thống pháp luật về các quyền tự do, dân chủ của công dân. Dân chủ đã trở thành yếu tố quan trọng nhất của nhà nước pháp quyền.
Pháp chế xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị của các nước xã hội chủ nghĩa liên quan đến Lênin VI, người đầu tiên chỉ ra tính cấp thiết của việc thực hiện khuôn khổ pháp luật chặt chẽ trong quá trình xây dựng xã hội mới; “Nếu không rơi vào tình trạng không tưởng, bạn Không thể cho rằng mọi người sẽ biết ngay cách làm việc cho xã hội mà không cần bất kỳ quy tắc pháp lý nào.

3. Đặc trưng cơ bản của pháp chế xã hội chủ nghĩa

Đối với cơ quan nhà nước, pháp chế xã hội chủ nghĩa đòi hỏi sự chấp hành nghiêm chỉnh Hiến pháp, luật, các văn bản pháp luật khác vốn là sự thể hiện trực tiếp thành chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan và quy chế công chức đối với từng nhân viên.

Đặc trưng rõ nét đối với cơ quan, nhân viên nhà nước là tổ chức thực thi quyền lực nhà nước. Xét về mặt đó, họ cũng là những thành viên bình đẳng của một cộng đồng là nhân dân làm chủ xã hội, nhưng lại có những ưu thế rõ nét: có sẵn quyền lực nên có khả năng tác động, chỉ phối những người khác, nhất là khi có quan hệ, cần đến họ. Thể hiện bản chất dân chủ trong thực thi quyền lực nhà nước với sự khẳng định đó không phải là một thứ quyền sẵn có, bẩm sinh mà do được nhân dân giao với một sự uỷ thác rõ ràng, phải được thực thi trong những khuôn viên do pháp luật định theo tỉnh thần phụ trách trước dân và chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép; quyền năng đó luôn luôn có hạn, là quyền hạn. Đồng thời, không chỉ phải nêu cao tỉnh thần phụ trách trước dân mà cơ quan nhà nước, công chức phải nêu gương tôn trọng, chấp hành pháp luật, giữ nghiêm phép nước và được khuyến khích, khích lệ trong việc tận tụy phục vụ nhân dân, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

Đối với các tổ chức xã hội, yêu cầu mà pháp chế xã hội chủ nghĩa đặt ra có phần hơi khác. Mỗi tố chức xã hội, phù hợp với tôn chỉ, mục đích khi thành lập thường đều có chính cương, điều lệ, nội quy và khi được nhà nước phê chuẩn, công nhận đều tổ chức và hoạt động theo các văn bản đó. Chúng có giá trị như một thứ “nội luật" của từng tổ chức xã hội. Nhà nước, xã hội không những không can thiệp, hoàn toàn tôn trọng tổ chức, hoạt động mà còn khuyến khích, cổ vũ họ phát huy đầy đủ vai trò, tác dụng của mình trong đời sống đất nước, chủ động, tích cực tham gia các hoạt động xã hội, tham gia quản lí nhà nước. Yêu cầu đặt ra từ phía pháp chế xã hội chủ nghĩa đối với từng tổ chức xã hội là hoạt động theo đúng điều lệ và duy trì trong khuôn khổ của Hiến pháp, pháp luật. Mọi hành động “vượt rào" từ phía các tổ chức xã hội đều là sự vi phạm pháp chế xã hội chủ nghĩa, không những không được hoan nghênh mà còn có thể bị xử lí nghiêm khắc.

Đối với các công dân, yêu cầu được đặt ra lại phải được xem xét từ một bình diện khác. Mỗi cá nhân - công dân là thành viên bình đẳng của một cộng đồng là nhân dân đang làm chủ xã hội bằng nhà nước, bằng pháp luật. Khi pháp chế trở thành nguyên tắc chỉ đạo, quán xuyến mọi mặt đời sống xã hội thì mỗi cá nhân - thành viên của cộng đồng phải lấy pháp chế làm nguyên tắc chỉ đạo toàn bộ ứng xử của mình. Mỗi cá nhân - công dân, thành viên bình đẳng của cộng đồng làm chủ xã hội được hưởng, sử dụng các quyền công dân rộng rãi, các quyền con người chân chính: các quyền tự do, dân chủ, quyền làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm. Nhưng địa vị làm chủ không phải chỉ để hưởng quyền mà hưởng quyền thì phải làm nghĩa vụ: có quyền làm chủ và có nghĩa vụ làm chủ, vì quyền đi liền với nghĩa vụ. Thực hành pháp chế trở thành một tiêu chí không thể thiếu của tư cách công dân - thành viên bình đẳng của cộng đồng nhân dân làm chủ xã hội. Như vậy, pháp chế xã hội chủ nghĩa, tuy đề ra những yêu cầu như có vẻ khác nhau, nhưng thực chất chỉ là một. Tất cả các chủ thể của các quan hệ xã hội phải lấy pháp chế làm nguyên tắc chỉ*đạo cho mình và từ vị trí của mình trong guồng

Pháp chế xã hội chủ nghĩa khi được xác lập như một hiện thực, một trạng thái xã hội, có sức mạnh như một lực lượng vật chất trực tiếp góp phần thiết lập trật tự kỉ cương, thúc đẩy xã hội phát triển. Nhưng pháp chế xã hội chủ nghĩa không thể tồn tại một cách tự thân, mà là sản phẩm của một xã hội - tạo dựa trên những tiền đề chính trị, kinh tế, xã hôi cần thiết cho sự ra đời.

- Nguyên tắc dân chủ bình đẳng xã hội chủ nghĩa;

- Nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa;

- Nguyên tắc chủ nghĩa yêu nước và đoàn kết quốc tế.

Trong từ điển Tiếng Việt, pháp chế được hiểu như sau: Pháp chế là chế độ trong đó đời sống và hoạt động xã hội được đảm bảo bằng pháp luật.

Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa được Khoản 1 Điều 8 Hiến pháp 2013 quy định: “Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật….”

Xuất phát từ quy định trên,Điều 2 Bộ luật Hình sự quy định: “Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật Hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự.”

Trong pháp luật hình sự, pháp chế xã hội chủ nghĩa quy định rất rõ: một người cụ thể chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự nếu người đó thực hiện hành vi được quy định trong pháp luật hình sự. Hành vi được thực hiện, dù nguy hiểm đến đâu, không thuộc đối tượng điều chỉnh của luật hình sự thì không phải là tội phạm và người thực hiện hành vi đó không phải chịu trách nhiệm hình sự. Nguyên tắc về tính hợp pháp được thể hiện trong các đạo luật, đảm bảo tính thống nhất của hệ thống quốc gia và chống lại các động cơ cá nhân nhằm hình sự hóa và làm oan người vô tội. Điều 2 “Luật Hình sự” quy định hành vi phạm tội phải là hành vi do Luật Hình sự quy định. Trong điều kiện hệ thống pháp luật tương đối đầy đủ, đồng bộ như hiện nay, nước ta không cho phép áp dụng pháp luật tương tự, nghiêm cấm việc lạm dụng pháp luật, tùy tiện truy cứu trách nhiệm hình sự người vô tội. Những quy định này đòi hỏi nhà nước phải kịp thời bổ sung, sửa đổi pháp luật hình sự để pháp luật hình sự đáp ứng kịp thời nhu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm, ngăn chặn tội phạm, bảo vệ kịp thời các quan hệ xã hội thuộc quyền sở hữu của nhà nước, trở thành khách thể. của luật hình sự.
Mọi công dân có trách nhiệm nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật, không làm những hành vi mà luật hình sự nghiêm cấm, thực hiện nghĩa vụ của mình theo quy định của luật hình sự.
Nguyên tắc pháp quyền xã hội chủ nghĩa còn được thể hiện trong hoạt động giải quyết vụ án của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, đó là phải triệt để tuân theo pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không bỏ lọt tội phạm. kịp thời thi hành, xử lý nghiêm minh các vụ việc. Triệt để, đảm bảo mọi tội phạm đều được phát hiện và xử lý.

4. Yêu cầu cơ bản của pháp chế xã hội chủ nghĩa

Nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần, sản xuất nhỏ là phổ biến, Đảng và Nhà nước rất coi trọng vai trò của pháp chế xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng của Đảng và Nhà nước là ổn định kỷ cương và lập lại trật tự được thể hiện trong các nguyên tức cơ bản sau đây:

– Quán triệt nguyên tắc thống nhất trong việc xây dựng pháp luật và thi hành pháp luật

Các nước xã hội chủ nghĩa dựa trên quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa và tiến hành quản lý tập trung, thống nhất toàn bộ xã hội. Pháp luật bảo đảm tính thống nhất và tập trung, tính thống nhất của hệ thống pháp luật là hiện thân của tính thống nhất của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa, đồng thời thể hiện sự thống nhất về ý chí dưới sự lãnh đạo của Nhà nước. buổi tiệc.
Pháp luật thống nhất trước hết đòi hỏi phải bảo đảm tính tối cao của pháp luật, tức là từ khâu xây dựng pháp luật đến chấp hành pháp luật và từ việc hình thành pháp luật đến thực hiện pháp luật. Cụ thể hơn, pháp luật yêu cầu các cơ quan nhà nước thực hiện nhiệm vụ của mình theo quy định của pháp luật trong phạm vi quyền hạn của họ. Cơ quan nhà nước, cơ quan hành chính, cơ quan kinh tế hay cơ quan tư pháp cũng phải như vậy. Văn bản quy phạm do cơ quan nhà nước ban hành không được trái pháp luật. Ngay cả Quốc hội, cơ quan lập pháp, khi ban hành luật cũng phải tuân thủ Hiến pháp và các đạo luật cơ bản của quốc gia (trừ trường hợp Quốc hội xét thấy cần thiết ban hành luật sửa đổi, bổ sung Hiến pháp).

– Tất cả các văn bản pháp luật của Nhà nước đều phải được quản triệt để tôn trọng và chấp hành một cách nghiêm chỉnh, không có một ngoại lệ nào đối với các quy phạm còn có hiệu lực, chưa được hủy bỏ hoặc sửa đổi

Một khi pháp luật đã được ban hành theo đúng thẩm quyền và đúng thể thức do Nhà nước quy định thì không có ai có thể nói rằng nên hay không nên tuân theo và chấp hành pháp luật đó. Pháp chế xã hội chủ nghĩa đòi hỏi chấp hành pháp luật một cách triệt để, vô điều kiện. Thái độ tự do , tùy tiện trong việc chấp hành pháp luật là trái với nguyên tắc pháp chế và không phù hợp với bản thân cơ sở kinh tế của chế độ xã hội chủ nghĩa.

Chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật là chấp hành đúng lời văn và tinh thần của các quy phạm pháp luật. Coi nhẹ bất kỳ mặt nào cũng dễ dẫn tới sai lầm trong thực tiễn (dù tự giác hay không tự giác). Nhưng nghiêm chinh chấp hành pháp luật không có nghĩa là chấp hành một cách hình thứ, pháp chế xã hội chủ nghĩa đòi hỏi một mặt phải chấp hành triệt để các quy phạm pháp luật. Mặt khác vận dụng các quy phạm pháp luật ấy sao cho phù hợp với nhiệm vụ kinh tế và chính trị trong từng giai đoạn phát triển tương ứng của xã hội chủ nghĩa.

– Mọi người phải bình dăng trước pháp luật – pháp luật bình đẳng trước mọi người

Các nước xã hội chủ nghĩa và pháp luật không thừa nhận bất kỳ đặc quyền nào trong lĩnh vực thực thi pháp luật. Trong một xã hội xã hội chủ nghĩa chỉ có một pháp luật và một kỷ luật nhà nước cho tất cả mọi người. Đảng viên và quần chúng ngoài Đảng, lãnh đạo và quần chúng bị lãnh đạo, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, đều có nghĩa vụ tuân theo pháp luật, có quyền yêu cầu người khác, cơ quan khác tôn trọng, bảo vệ mình, bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình và sở thích. Luật pháp đã được đưa ra và mọi người phải tuân theo chúng. Người phạm tội được đối xử bình đẳng.

– Bảo vệ các quyền và tự do của công dân đã được pháp luật quy định

Ở nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, công dân được hưởng các quyền dân chủ được ghi trong hiến pháp. Trong khi quan tâm đến đời sống của nhân dân, các cơ quan nhà nước phải tôn trọng và bảo vệ các quyền của công dân được quy định trong Hiến pháp, bảo đảm tính xác thực của các quyền tự do công dân, ngăn chặn kịp thời nạn tham nhũng, chấm dứt mọi hành vi vi phạm các quyền này. một trong những yêu cầu quan trọng của công cuộc xây dựng CNXH. pháp luật. Khi thực hiện các quyền tự do do pháp luật quy định, công dân không được làm phương hại đến lợi ích của Nhà nước và xã hội, cũng như lợi ích của công dân khác. Nhà nước phải thường xuyên chăm lo tạo những điều kiện cần thiết để công dân thực hiện có hiệu quả các quyền và tự do của mình.
Tóm lại, nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc bảo đảm tính triệt để của pháp luật hình sự Việt Nam, bảo vệ có hiệu quả lợi ích của nhà nước, xã hội và công dân.

Nội dung bài viết:

    Đánh giá bài viết: (418 lượt)

    Bài viết liên quan

    Phản hồi (0)

    Hãy để lại bình luận của bạn tại đây!