Giao dịch dân sự là sự kiện pháp lý, bao gồm hành vi pháp lý đơn phương hoặc đa phương (hợp đồng) có hậu quả pháp lý. Tùy từng giao dịch cụ thể mà giao dịch này làm phát sinh, thay đổi hoặc loại bỏ quyền, nghĩa vụ dân sự. Chẳng hạn, khi giao dịch mua bán chuyển nhượng đất đai dân sự diễn ra sẽ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của cả bên bán và bên mua.
1. Hình thức giao dịch dân sự:
Theo quy định tại Điều 119 BLDS 2015, hình thức của giao dịch dân sự được quy định như sau:
Điều 119. Hình thức giao dịch dân sự
1. Giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể. Giao dịch dân sự điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của Luật giao dịch điện tử được coi là giao dịch bằng văn bản.
2. Trường hợp pháp luật có quy định giao dịch dân sự phải được chứng thực bằng văn bản, được công chứng, chứng thực hoặc đăng ký thì phải thực hiện theo quy định đó.
Hình thức của giao dịch dân sự là sự thể hiện ra bên ngoài nội dung của nó dưới một dạng vật chất hữu hình nào đó. Giao dịch dân sự được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, bao gồm: lời nói, văn bản hoặc hành vi cụ thể. Một hình thức cụ thể của giao dịch bằng lời nói hoặc hành vi được áp dụng chung cho các giao dịch dân sự được xác lập hoặc chấm dứt ngay sau khi thực hiện (như mua bán trao tay) hoặc giữa các chủ thể có quan hệ tin cậy, thân thiết với nhau.
Hình thức của giao dịch dân sự được thể hiện bằng văn bản là việc các bên thỏa thuận bằng văn bản về các điều kiện của giao dịch và được các bên xác nhận ý chí của mình vào văn bản này. Giao dịch dân sự điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của Luật giao dịch điện tử được coi là giao dịch bằng văn bản. Giao dịch dân sự phải được lập thành văn bản, được công chứng, chứng thực, đăng ký, ủy quyền và tuân theo các quy định này.
Do đó, có thể hiểu quy định này: trong trường hợp pháp luật quy định chỉ được thể hiện bằng một trong ba hình thức sau: chứng thư công chứng, chứng thư chứng thực hoặc chứng thư đăng ký thì các bên chỉ được lựa chọn hình thức này. Một cách giải thích khác: nếu pháp luật cho phép hình thức giao dịch được thể hiện bằng chứng thư công chứng, hợp pháp hóa và chỉ định, thì giao dịch phải thể hiện ba loại tài liệu này. Vì vậy, đối với các giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản thì khi thực hiện pháp luật cần có hướng dẫn cụ thể.
Ý nghĩa: Giao dịch dân sự là căn cứ chung và phổ biến nhất để làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự, di chuyển tài sản, cung ứng dịch vụ đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của mọi thành viên trong xã hội. Trong nền sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường, thông qua giao dịch dân sự, các chủ thể đáp ứng các nhu cầu sản xuất, thương mại và các nhu cầu khác của đời sống hàng ngày.2. Giao dịch dân sự có điều kiện:
Điều 120. Hoạt động dân sự có điều kiện
1. Khi các bên thỏa thuận về điều kiện phát sinh hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự thì khi có đủ điều kiện thì giao dịch dân sự phát sinh hoặc hủy bỏ.
2. Trường hợp điều kiện làm phát sinh hoặc vô hiệu Giao dịch dân sự không thể xảy ra do hành vi cản trở trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp của một bên thì điều kiện đó được coi là đã xảy ra; trong trường hợp có sự tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của một bên để cố ý làm cho điều kiện xảy ra thì điều kiện đó được coi là không xảy ra.
Khi giao dịch dân sự được xác lập, các bên có thể thỏa thuận về thời điểm có hiệu lực hoặc thời điểm chấm dứt giao dịch dân sự khi có sự kiện khách quan xảy ra. Một sự kiện là một điều kiện dự đoán có thể xảy ra, nhưng không chắc chắn sẽ xảy ra trong tương lai. Giao dịch dân sự có điều kiện có hiệu lực là giao dịch đã được xác lập nhưng chưa có hiệu lực và các bên phải thực hiện giao dịch. Ngược lại, giao dịch dân sự có điều kiện hủy bỏ là giao dịch đang tiếp diễn, chưa hết thời hiệu mà điều kiện thỏa thuận trước đó xuất hiện thì giao dịch sẽ bị hủy bỏ. Đối với giao dịch có điều kiện, một sự kiện được coi là điều kiện phải xảy ra một cách khách quan, cho dù một trong các bên tham gia có hành vi trực tiếp hoặc gián tiếp ngăn cản điều kiện xảy ra hoặc phải thực hiện nghĩa vụ thúc đẩy điều kiện đó xảy ra nhanh chóng hoặc không xảy ra. Hậu quả pháp lý của giao dịch phát sinh hoặc chấm dứt theo điều kiện mà các bên đã thoả thuận trong quá trình thực hiện giao dịch dân sự.3. Điều kiện có hiệu lực của hành vi dân sự:
Điều 117. Điều kiện có hiệu lực của hành vi dân sự
1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự theo giao dịch dân sự đã được xác lập;
b) Các chủ thể tham gia giao dịch dân sự trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện;
c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không vi phạm đạo đức xã hội. 2. Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp pháp luật có quy định.
Để đảm bảo giao dịch dân sự có hiệu lực thì phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện quy định tại Điều 117 Bộ luật Dân sự 2015. Nếu thiếu một trong các điều kiện này thì giao dịch dân sự đương nhiên hoặc có thể bị coi là vô hiệu:
– Điều kiện liên quan đến chủ thể tham gia giao dịch dân sự: Chủ thể tham gia giao dịch dân sự ở đây phải được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm tất cả các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật dân sự. Chủ thể tham gia giao dịch dân sự phải có năng lực dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch được xác lập. Chủ thể tham gia giao dịch dân sự là thể nhân phải có năng lực hành vi dân sự, biết và làm chủ hành vi của mình trong việc xác lập, sửa đổi, hạn chế quyền, nghĩa vụ dân sự và tự chịu trách nhiệm trong việc thực hiện giao dịch dân sự.
Tùy theo mức độ năng lực hành vi dân sự của cá nhân mà cá nhân có thể tham gia vào các giao dịch phù hợp với độ tuổi. Chủ thể là pháp nhân tham gia giao dịch dân sự thông qua người đại diện. Hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự hoặc ủy quyền cho người đại diện xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.
– Điều kiện về mục đích và nội dung của giao dịch dân sự: Ở đây, mục đích của giao dịch dân sự là lợi ích hợp pháp mà các bên mong muốn có được khi tham gia giao dịch dân sự. Nội dung của giao dịch dân sự là tập hợp các điều khoản, giao ước xác định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, ràng buộc các chủ thể khi tham gia giao dịch dân sự. Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội. Trong quan hệ giao dịch, các chủ thể có quyền tự do, tự nguyện giao kết nhằm đáp ứng lợi ích mà các bên mong muốn đạt được nhưng không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái với quy tắc xử sự thông thường của con người.
- Điều kiện tự nguyện khi xác lập giao dịch dân sự: Xét về bản chất của giao dịch dân sự là sự thống nhất giữa ý chí và sự thể hiện ý chí nên các chủ thể tham gia giao dịch dân sự phải hoàn toàn tự nguyện trong việc thể hiện và thể hiện ý chí của mình. Trước khi tham gia giao dịch dân sự, các chủ thể có quyền tự do quyết định việc tham gia hay không tham gia giao dịch dân sự, không chịu sự tác động, ràng buộc, ngăn cấm, đe dọa. – Điều kiện về hình thức của hành vi dân sự: Hình thức của hành vi dân sự là phương thức thể hiện nội dung của hành vi. Các bên có quyền lựa chọn hình thức xác lập giao dịch phù hợp. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, pháp luật quy định hình thức bắt buộc mà các bên phải tôn trọng, nếu vi phạm thì giao dịch sẽ không có hiệu lực.4. Hành vi dân sự vô hiệu do không tuân thủ các quy tắc về hình thức:
Tổng hợp câu hỏi:
Tiết 129. Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ các quy định về hình thức
Giao dịch dân sự vi phạm quy định về điều kiện hình thức có hiệu lực thì vô hiệu, trừ các trường hợp sau đây:
1. Việc hòa giải dân sự được lập theo quy định phải được lập thành văn bản nhưng văn bản đó không tuân theo quy định của pháp luật và một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ của việc hòa giải thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của việc hòa giải.
2. Giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm nguyên tắc bắt buộc phải công chứng, chứng thực và một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ của giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong trường hợp này, các bên không bắt buộc phải thực hiện việc công chứng, chứng thực.
Anh chị có thể phân tích giúp em được không ạ? Em cảm ơn?
Luật sư tư vấn:
Đối với quy định giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức, tại Điều 134 Bộ luật dân sự 2005 quy định:
“trường hợp pháp luật quy định hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch mà các bên không tuân theo thì theo yêu cầu của một hoặc các bên, Toà án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác quyết định buộc các bên thực hiện quy định về hình thức của giao dịch trong một thời hạn; quá thời hạn đó mà không thực hiện thì giao dịch vô hiệu.”
Quy định này yêu cầu các bên khi thực hiện giao dịch dân sự mà hình thức giao dịch là điều kiện có hiệu lực của giao dịch, các bên phải tuân thủ. Nếu các bên không tuân thủ quy định về hình thức giao dịch, thì theo yêu cầu của một hoặc các bên, Toà án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác quyết định buộc các bên thực hiện quy định về hình thức của giao dịch trong một thời hạn; quá thời hạn đó mà không thực hiện thì giao dịch vô hiệu.
Tuy nhiên, khi triển khai trên thực tế quy định, đã gặp nhiều vướng mắc và khó đảm bảo tính khả thi vì trong nhiều trường hợp, một trong các bên trong giao dịch không hợp tác để thực hiện quy định về hình thức của giao dịch, mặc dù giao dịch được giao kết trên cơ sở ý chí tự nguyện của các bên, dẫn tới giao dịch vô hiệu.
Do đó, tại Điều 129 Bộ Luật dân sự 2015 đã thay đổi quy định này như sau:
“Giao dịch dân sự vi phạm quy định điều kiện có hiệu lực về hình thức thì vô hiệu, trừ trường hợp sau đây:
1. Giao dịch dân sự đã được xác lập theo quy định phải bằng văn bản nhưng văn bản không đúng quy định của luật mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó.
2. Giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong trường hợp này, các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực.”
Theo đó, quy định giao dịch dân sự vi phạm quy định điều kiện có hiệu lực về hình thức là giao dịch dân sự vô hiệu, nhưng loại trừ 2 trường hợp:
1, Giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng việc xác lập văn bản không đúng quy định của luật:
Khi đó, một bên hoặc các bên trong giao dịch đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ, thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó;
2, Giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực:
Khi đó, một bên hoặc các bên trong giao dịch dân sự đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ của mình, thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong trường hợp này, các bên không bắt buộc phải thực hiện việc công chứng, chứng thực.
Như vậy, với quy định này, một giao dịch vi phạm quy định về hình thức nhưng các bên tham gia giao dịch đã chủ động, ngay tình thực hiện giao dịch và thực hiện ít nhất 2/3 nghĩa vụ của giao dịch thì giao dịch đó sẽ không bị coi là giao dịch vô hiệu.
Nội dung bài viết:
Bình luận