Tìm hiểu về giá trị thặng dư tư bản chủ nghĩa là gì?

1. Giá trị thặng dư là gì?

Giá trị thặng dư là những gì còn lại sau khi trừ đi lợi tức của yếu tố đầu vào từ giá cung. D. Ricardo đưa ra ví dụ về việc trả tiền thuê cho những chủ đất sở hữu đất màu mỡ
Marx đã nghiên cứu giá trị thặng dư dưới dạng chi phí lao động, trong đó công nhân sản xuất ra nhiều giá trị hơn giá trị mà họ phải trả - được thúc đẩy bởi thực tế là mức lương tối thiểu vừa đủ để đảm bảo sự tồn tại của họ với tư cách là công nhân. Theo Marx, sự bóc lột công nhân chỉ có thể bị xóa bỏ nếu các nhà tư bản trả đủ giá trị mới được tạo ra.
A.Marshall tin rằng, về bản chất, tất cả thu nhập nhân tố trên chi phí nhân tố đều là tiền thuê ngắn hạn. Như vậy, theo ông, khi một yếu tố sản xuất không còn cơ hội nào khác để lựa chọn, thì toàn bộ phần thường dành cho nó chính là giá trị thặng dư.
Có hai phương pháp chính để thu được giá trị còn lại:
  • Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối.
  • Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối.
- Phương thức sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối: trong điều kiện năng suất lao động, giá trị sức lao động và thời gian lao động không đổi thì phương thức sản xuất giá trị thặng dư bằng cách kéo dài thời gian lao động thặng dư.
Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài ngày lao động vượt quá giới hạn thời gian lao động cần thiết. Độ dài của ngày lao động giữ cho thời gian lao động cần thiết không đổi và dẫn đến tăng thời gian lao động thặng dư. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là kéo dài thời gian lao động thặng dư trong điều kiện năng suất, giá trị và thời gian lao động cần thiết không đổi. Cơ sở chung của chủ nghĩa tư bản là sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối.
Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối được sử dụng phổ biến trong thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản. Đây là khi lao động vẫn ở mức thủ công và năng suất lao động còn rất thấp. Lúc này, vì lòng tham vô độ, các nhà tư bản tìm mọi cách để kéo dài ngày lao động nhằm tăng khả năng bóc lột sức lao động làm thuê.
Tuy nhiên, sức người là có hạn. Hơn nữa, nhà tư bản không thể kéo dài ngày lao động vô thời hạn vì phải đấu tranh quyết liệt để rút ngắn ngày lao động của công nhân. Tuy nhiên, ngày làm việc không được rút ngắn đến giới hạn số giờ làm việc cần thiết. Một hình thức khác của sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là cường độ lao động. Vì tăng cường độ lao động cũng giống như kéo dài thời gian lao động trong ngày nhưng thời gian lao động cần thiết không đổi.
Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư trong điều kiện ngày lao động không đổi và cường độ lao động bằng cách giảm giá trị sức lao động và rút ngắn thời gian lao động cần thiết, do đó làm tăng thời gian lao động thặng dư trong tương lai.
Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được do tất yếu rút ngắn thời gian lao động trên cơ sở nâng cao năng suất lao động. Năng suất lao động xã hội tăng lên, trước hết là sản xuất hàng tiêu dùng, làm hạ thấp giá trị sức lao động. Do đó, thời gian lao động cần thiết cũng giảm. Khi độ dài ngày lao động không đổi thì thời gian lao động cần thiết giảm đi sẽ làm tăng thời gian lao động thặng dư (thời gian tạo ra giá trị thặng dư tương đối cho nhà tư bản).
Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối là rút ngắn thời gian lao động cần thiết bằng cách giảm giá trị sức lao động. Như vậy, thời gian lao động thặng dư được tăng lên trong khi ngày lao động và cường độ lao động không đổi.
- Nâng cao giá trị thặng dư là phần giá trị thặng dư thu được của doanh nghiệp sản xuất ra giá trị cụ thể thấp hơn giá trị xã hội, khi bán hàng hoá theo giá trị xã hội sẽ thu được giá trị thặng dư nhất định và có lợi thế hơn doanh nghiệp khác. Giá trị thặng dư dôi ra = giá trị xã hội của hàng hóa - giá trị cá biệt của hàng hóa. Giá trị thặng dư là phần thay đổi của giá trị thặng dư tương đối, là động lực trực tiếp làm tăng năng suất lao động.
Để thu được nhiều giá trị thặng dư và lợi thế cạnh tranh, các nhà tư bản áp dụng tiến bộ công nghệ vào sản xuất. Mục đích cải tiến, hoàn thiện phương pháp quản lý kinh tế, tăng năng suất lao động. Kết quả là giá trị cá nhân của hàng hóa thấp hơn giá trị xã hội. Nhà tư bản nào áp dụng phương pháp này, khi hàng hóa của anh ta bán ra, sẽ thu được giá trị thặng dư lớn hơn các nhà tư bản khác.
Giá trị thặng dư dôi ra là bộ phận giá trị thặng dư thu được vượt quá giá trị thặng dư bình thường xã hội. Nếu coi mọi nhà tư bản xuất khẩu, giá trị thặng dư thặng dư chỉ là hiện tượng nhất thời. Tuy nhiên, đối với toàn bộ xã hội tư bản chủ nghĩa, giá trị thặng dư vượt mức là một trạng thái bình thường. Vì vậy, giá trị thặng dư là động lực mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động.
Giá trị thặng dư tương đối và giá trị thặng dư quá mức đều dựa trên cơ sở nâng cao năng suất lao động. Nhưng điểm khác nhau giữa hai loại này là giá trị thặng dư tương đối dựa trên cơ sở nâng cao năng suất lao động xã hội. Giá trị thặng dư hình thành trên cơ sở tăng năng suất lao động cá biệt.
Học thuyết giá trị thặng dư được coi là phát minh quan trọng chỉ đứng sau học thuyết duy vật lịch sử của Mác. Vậy giá trị thặng dư là gì? Về cơ bản, giá trị thặng dư là sự phản ánh các quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản. Sự tạo ra và chiếm đoạt giá trị thặng dư phản ánh bản chất quan hệ của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa (quan hệ bóc lột của nhà tư bản đối với công nhân làm thuê).
Hiện nay, có nhiều quan niệm khác nhau về giá trị còn lại. Tuy nhiên, bạn có thể hiểu đơn giản theo cách sau.
Giá trị thặng dư là phần giá trị do công nhân làm thuê tạo ra vượt quá giá trị sức lao động của họ nhưng bị nhà tư bản chiếm đoạt. Để tiến hành hoạt động sản xuất, nhà tư bản phải bỏ ra tư liệu sản xuất và mua sức lao động. Mục đích của việc chi tiền là để thu được phần thặng dư mà họ đã bỏ ra trong quá trình sản xuất. Phần thừa là giá trị thặng dư. "
Vì vậy, giá trị thặng dư do nhà tư bản sở hữu khác với giá trị sức lao động do công nhân làm công ăn lương tạo ra gọi là giá trị thặng dư.
Giá trị thặng dư được Mác nghiên cứu dưới góc độ hao phí lao động. Những người làm công ăn lương tạo ra nhiều giá trị hơn những gì họ được trả. Đây là yếu tố được quyết định bởi mức lương tối thiểu chỉ đủ để họ sống như những người công nhân. Đối với Marx, sự bóc lột sức lao động chỉ có thể bị xóa bỏ khi các nhà tư bản trả đủ cho giá trị mới được tạo ra.

2. Nguồn gốc của giá trị thặng dư:

Để sản xuất, nhà tư bản phải mua sức lao động và tư liệu sản xuất. Vì cả tư liệu sản xuất và sức lao động đều do nhà tư bản mua nên trong quá trình sản xuất, công nhân làm việc dưới sự kiểm soát của nhà tư bản và sản phẩm đầu ra thuộc sở hữu của nhà tư bản.
Sản xuất tư bản chủ nghĩa là quá trình tạo ra giá trị gia tăng cho nhà tư bản khi năng suất lao động đạt đến một trình độ nhất định - những người công nhân làm thuê chỉ sử dụng một phần nhỏ thời gian trong ngày lao động để tạo ra giá trị bằng giá trị sức lao động của chính họ.
Thông qua lao động cụ thể của mình, công nhân sử dụng tư liệu sản xuất và chuyển giá trị của mình vào sản phẩm; thông qua lao động trừu tượng, công nhân tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị sức lao động, phần lớn hơn đó gọi là giá trị thặng dư.
Giá trị của hàng hóa sản xuất ra (W) gồm hai bộ phận: giá trị của những tư liệu sản xuất đã hao phí do lao động cụ thể bảo quản và chuyển thành sản phẩm (giá trị cũ, ký hiệu là c) và giá trị mới (v+m) do trừu tượng của công nhân do lao động sản xuất ra (lớn hơn giá trị của hàng hóa-sức lao động). Ngoài giá trị sức lao động hàng hoá, trong giá trị mới do lao động sống tạo ra, phần mà nhà tư bản thu được mà không phải trả công cho công nhân được gọi là giá trị thặng dư (m). Vì vậy, lao động sống là nguồn gốc tạo ra giá trị thặng dư.

3. Bản chất và ý nghĩa của giá trị thặng dư:

Từ việc nghiên cứu học thuyết giá trị thặng dư của C. Mác, chúng ta có thể thấy rõ, trong giai đoạn phát triển hiện nay của nước ta có ít nhất ba vấn đề chủ yếu.
Trước hết, trong thời kỳ quá độ về kinh tế ở nước ta, quan hệ bóc lột ở mức độ nào đó không thể xóa bỏ ngay và sạch theo đường lối giáo điều, cố chấp cũ được. Nền kinh tế đa nguyên càng phát triển, chúng ta càng thấy rõ chừng nào quan hệ bóc lột còn có chức năng giải phóng và thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, thì chúng ta vẫn phải chấp nhận sự tồn tại của nó.
Thứ hai, trong thực tiễn nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta hiện nay, mọi phương án đều cố gắng lượng hóa rõ ràng, máy móc, cứng nhắc mức độ bóc lột, hoạch định chính sách, thái độ phân biệt đối với tầng lớp doanh nhân mới nổi. Vừa xa thực tế, vừa không thể thực hiện được. Ngày nay, thậm chí thuyết phục hơn, quan hệ phân phối phải được thể chế hóa bằng pháp luật.
Sau khi các nguyên tắc, chính sách của Đảng và Nhà nước được thể chế hóa thành pháp luật, không những có lợi cho việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà còn lấy pháp luật làm công cụ, cơ sở để điều chỉnh. Đặc biệt là hành vi. Ai nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật sẽ được xã hội ghi nhận, tôn vinh theo phương châm: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Về mặt nhận thức, nhận thức phổ biến nên được coi là mức độ bóc lột được xã hội chấp nhận, mức độ làm giàu hợp pháp. Trong quản lý xã hội, cần kiểm soát chặt chẽ thu nhập của cá nhân và doanh nghiệp, một mặt chống thất thu thuế, mặt khác phải đảm bảo phân phối công bằng thông qua trạng thái và "kênh", "phân phối lại" và "quy định". thu nhập xã hội. Tôi thấy đây là một cách giải quyết vấn đề bóc lột giúp chúng ta tránh được cách hiểu giáo điều và không biện chứng về quan hệ bóc lột và sự vận dụng của nó vào các giai đoạn lịch sử cụ thể của sự bóc lột. Giải phóng sức sản xuất, tạo đà phát triển kinh tế, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ ba, mặt khác, quyền và lợi ích hợp pháp của cả NSDLĐ và NLĐ phải được bảo vệ theo quy định của pháp luật, có chế tài xử lý rất cụ thể, bảo đảm công khai, minh bạch và bền vững. Xung đột lợi ích trong quá trình sử dụng lao động là một thực tế, làm thế nào để phân xử những xung đột đó và tránh những xung đột không cần thiết cũng là một yêu cầu cấp thiết hiện nay, được thể hiện trong bản chất của hệ thống mới. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia quan hệ lao động và các quyền được pháp luật bảo vệ chính là sự bảo đảm cho việc sử dụng hợp lý quan hệ bóc lột trong điều kiện hiện nay, đồng thời cũng là góp phần cơ bản nhất vào việc hoàn thiện quá trình bóc lột. các mối quan hệ. Xác lập mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Học thuyết giá trị thặng dư của Mác ra đời trên cơ sở nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Việc phát hiện ra giá trị thặng dư đã châm ngòi cho một cuộc cách mạng thực sự trong mọi ngành khoa học kinh tế, đem lại cho giai cấp vô sản một vũ khí sắc bén trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản.

Nội dung bài viết:

    Đánh giá bài viết: (1017 lượt)

    Bài viết liên quan

    Phản hồi (0)

    Hãy để lại bình luận của bạn tại đây!