Tìm hiểu về công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là gì?

1. Khái niệm

Công nghiệp hóa là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của quá trình phát triển vì nó đưa cả nền sản xuất vật chất và đời sống văn hóa - xã hội của đất nước lên trình độ mới. Ở mỗi thời kỳ lịch sử, căn cứ vào tình hình kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa có nội dung và bước đi cụ thể, phù hợp.

Đối với Việt Nam, khi chính thức bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng chủ trương tiến hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, và từ cuối thế kỷ XX đến nay, quá trình này được xác định đầy đủ là công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đó là một quá trình kinh tế, kỹ thuật - công nghệ và kinh tế - xã hội toàn diện, sâu rộng nhằm chuyển đổi nền sản xuất và xã hội Việt Nam từ trình độ nông nghiệp lạc hậu lên trình độ công nghiệp với các trình độ công nghệ ngày càng tiên tiến, hiện đại, văn minh.

Trên cơ sở tổng kết công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX đến nay và bám sát bối cảnh, yêu cầu, nhiệm vụ mới, Đại hội XIII của Đảng nêu rõ chủ trương: “Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên nền tảng của tiến bộ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo”.

Đến nay, lịch sử nhân loại đã chứng kiến 4 cuộc cách mạng công nghiệp, cũng là các cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật nói chung. Cuộc thứ nhất, vào cuối thế kỷ XVIII, khai sinh ra nền công nghiệp cơ khí, tạo ra dây chuyền sản xuất hàng loạt, sản xuất hàng hóa, kinh tế thị trường… Cuộc thứ hai diễn ra vào cuối thế kỷ XIX, đưa đến sự ra đời của nền công nghiệp và xã hội điện khí hóa; tạo tiền đề để chủ nghĩa tư bản chuyển từ tự do cạnh tranh lên độc quyền đế quốc. Cuộc thứ ba, vào giữa thập kỷ 70 của thế kỷ XX, mở ra thời đại điện tử hóa, tin học hóa. Cuộc thứ tư, từ đầu thế kỷ XXI, đánh dấu bước ngoặt chuyển đổi số của toàn bộ đời sống vật chất và tinh thần của con người. Mỗi cuộc cách mạng tạo ra một trình độ công nghệ ngày càng hiện đại cho quá trình công nghiệp hóa lâu dài của nhân loại.

Các chuyên gia trên thế giới đã khái quát 4 trình độ công nghiệp hóa từ thấp đến cao. Thấp nhất là trình độ lắp ráp (Assemblement); tiếp đó là trình độ sản xuất với kỹ thuật riêng (Own Engineering Manufacturing-OEM); cao hơn là trình độ sản xuất với thiết kế riêng (Own Design Manufacturing-ODM) và cao nhất là trình độ sản xuất với thương hiệu riêng (Own Brand Manufacturing-OBM).

Để tiến lên trình độ công nghiệp hóa ngày càng cao, mỗi quốc gia nhất thiết phải có một số ngành xản xuất công nghiệp nền tảng, mà thiếu chúng thì không thể triển khai các ngành công nghiệp khác. Các ngành luyện kim, cơ khí, chế tạo, năng lượng, hóa chất… chính là những nền tảng cho các ngành công nghiệp khác có điều kiện, tiền đề xây dựng, phát triển.

Trên thực tế, không ít quốc gia đã không dành sự quan tâm ở tầm chiến lược cho các ngành công nghiệp này. Hệ quả trực tiếp là nền sản xuất công nghiệp quốc gia về cơ bản dừng lại ở trình độ lắp ráp và các ngành công nghiệp phụ trợ cũng không thể phát triển, nền công nghiệp quốc gia ngày càng lép vế trước các cơ sở công nghiệp FDI. Trước thực trạng này, Đại hội XIII xác định: “Xây dựng nền công nghiệp quốc gia vững mạnh. Tập trung phát triển những ngành công nghiệp nền tảng, nhất là công nghiệp cơ khí, chế tạo, công nghiệp hỗ trợ”.

Trong thế giới ngày nay, quá trình công nghiệp hóa của mỗi quốc gia không thể tiến hành biệt lập, khép kín mà phải đặt trong chuỗi sản xuất - kinh doanh toàn cầu. Đối với Việt Nam, đòi hỏi này trở nên bức thiết gấp bội vì nền kinh tế nước ta đã hội nhập rất sâu với nền kinh tế thế giới: giá trị tổng kim ngạch xuất nhập khẩu bằng 160-200% GDP trong những năm vừa qua. Trên ý nghĩa rất lớn, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta cũng là quá trình cơ cấu lại nền kinh tế theo lợi thế cạnh tranh; đảm bảo tự chủ kinh tế quốc gia thông qua đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả sản xuất - kinh doanh. Để định hướng cho quá trình chuyển đổi quan trọng này, Đại hội XIII chỉ rõ: “Cơ cấu lại công nghiệp, nâng cao trình độ công nghệ, đẩy mạnh chuyển đổi sang công nghệ số, nâng cao tính tự chủ của nền kinh tế, có khả năng tham gia sâu, có hiệu quả vào các chuỗi giá trị toàn cầu”.

2. Tổng quan chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về công nghiệp hóa  

2.1: Công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới (từ năm 1960 đến năm 1986)

Công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, bắt đầu được hình thành từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (năm 1960), với nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ ở miền Bắc nước ta, là công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Chủ trương chính của thời kỳ này là: “Xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và hiện đại, kết hợp công nghiệp với nông nghiệp và lấy công nghiệp nặng làm nền tảng, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, nhằm biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước có công nghiệp hiện đại và nông nghiệp hiện đại".

Do đó, trước thời kỳ đổi mới, nước ta có khoảng 25 năm tiến hành công nghiệp hóa, đáng chú ý quá trình này được chia ra làm 02 giai đoạn: Từ năm 1960 đến năm 1975 tiến hành công nghiệp hóa ở miền Bắc, và từ năm 1975 đến năm 1985, tiến hành công nghiệp hóa trên phạm vi cả nước.

Đặc trưng chủ yếu của thời kỳ này là tiến hành công nghiệp hóa, trên cơ sở phát triển công nghiệp nặng, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển công nghiệp với nông nghiệp; phát triển chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên đất đai, nguồn viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa, và Nhà nước cùng doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò chủ lực, trong việc thực hiện công nghiệp hóa đất nước.

Phương hướng cơ bản của giai đoạn này, chính là phát triển theo mô hình Chiến lược CNH thay thế nhập khẩu, mà nhiều trên thế giới đã và đang thực hiện tại thời điểm đó (Bao gồm cả các nước XHCN và TBCN). Có thể đánh giá, hướng phát triển của Chiến lược này được duy trì trong suốt 15 năm ở miền Bắc (từ 1960 – 1975) và 10 năm tiếp theo trên phạm vi cả nước (từ 1976 – 1986).

Tuy nhiên, do tiến hành công nghiệp hóa từ một nền kinh tế lạc hậu, nghèo nàn, những tiền đề cần thiết cho phát triển hạn chế, lại trong điều kiện có chiến tranh và cùng nhiều nguyên nhân chủ quan khác, nên nền kinh tế Việt Nam đã không đạt được những mục tiêu đã đặt ra, đất nước vẫn trong tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, kém phát triển và rơi vào khủng hoảng kinh tế-xã hội.

Kết quả được ghi nhận trong quá trình công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa này, đó là số lượng các xí nghiệp công nghiệp tăng cao, một số khu công nghiệp (hay khu vực công nghiệp) lớn được hình thành, và đã xây dựng được nhiều cơ sở công nghiệp quan trọng, là nền tảng phát triển cho mốt số ngành công nghiệp của đất nước, như: Điện, than, cơ khí, luyện kim, VLXD, hóa chất.

2.2: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa thời kỳ đổi mới (từ 1986 đến nay)

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng Cộng sản Trung Quốc (1986): Tại Đại hội lần thứ VI, chúng ta đã đề xuất và từng bước thực hiện những cập nhật về chính sách sau khi tổng kết kinh nghiệm của một số nền kinh tế trên thế giới. Chính sách kinh tế được hoạch định trên cơ sở cập nhật tư duy kinh tế và tổng kết thực tiễn. cuộc thí nghiệm. Giai đoạn 1986-1990 có thể coi là giai đoạn “khởi động” cho sự phát triển kinh tế mạnh mẽ tiếp theo. Đại hội thông qua chủ trương chấn chỉnh toàn diện và xác định: “Mục tiêu tổng quát cho những năm còn lại của giai đoạn thứ nhất là ổn định toàn diện tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục tạo tiền đề cần thiết để đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn tiếp theo”. .
Đặc biệt, Đại hội VI đã cụ thể hóa nội dung chủ yếu của giai đoạn đầu công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, đó là thực hiện kế hoạch 03 lương thực (1); hàng tiêu dùng (2) và hàng xuất khẩu (3) trong những năm còn lại của giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa. sự biến đổi. Ba chương trình này có quan hệ mật thiết với nhau. Phát triển lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng nhằm bảo đảm các nhu cầu cơ bản của đời sống nhân dân, thúc đẩy ổn định kinh tế - xã hội; phát triển các mặt hàng xuất khẩu là nhân tố quyết định khuyến khích sản xuất và đầu tư trong nước, thu ngoại tệ và nhập khẩu máy móc, thiết bị sản xuất . Ưu tiên thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của các nỗ lực bên trong và bên ngoài.
Điểm nhấn chính của Đại hội VI là sự thay đổi trong lựa chọn mô hình chiến lược công nghiệp hóa, từ hướng nội (thay thế nhập khẩu) trước đây sang mô hình hỗn hợp (hướng xuất khẩu thay thế nhập khẩu thay thế nhập khẩu). Vào thời điểm đó, nó đã được sử dụng rộng rãi ở một số nước châu Á và đạt được thành công nhất định.
Đặc biệt về công nghiệp, Đại hội xác định phương hướng phát triển công nghiệp nhẹ, tiểu thủ công nghiệp đáp ứng nhu cầu hàng tiêu dùng tổng hợp, chế biến nông, lâm, thủy sản, hàng tăng trưởng nhanh, chế biến xuất khẩu và các mặt hàng xuất khẩu khác. Căn cứ vào tình hình thực tế, tiếp tục xây dựng một số cơ sở công nghiệp nặng, trước hết là năng lượng, phục vụ thực tế mục tiêu kinh tế và quốc phòng giai đoạn đầu, chuẩn bị cho bước công nghiệp hóa tiếp theo. .
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Trung Quốc (1991): Nhận thức về công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Đảng ta không ngừng được cập nhật, toàn diện và có chiều sâu. Hội nghị đề cập đến lĩnh vực kinh tế - kỹ thuật dịch vụ đáp ứng nhu cầu sản xuất, đời sống và hợp tác quốc tế; xây dựng chiến lược phát triển kinh tế vùng đồng bộ với chiến lược quốc gia. Thực hiện bảy chính sách lớn công nghiệp hóa, nền kinh tế đã đạt được tốc độ phát triển cao hơn, chất lượng cao hơn và thực chất hơn nhiều năm trước.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng đã tạo ra những bước đột phá mới trong công nghiệp hóa. Lần đầu tiên, các văn kiện của đảng đã xác định chính thức phạm vi “công nghiệp hóa, hiện đại hóa” (CNH, HĐH). Trong điều kiện phát triển mới, nước ta phải kết hợp công nghiệp hóa với hiện đại hóa, bởi vì: trong điều kiện khoa học và công nghệ phát triển như vũ bão, nếu nước ta không thực hiện công nghiệp hóa kết hợp hiện đại hóa thì sẽ ngày càng tụt hậu so với nền kinh tế chung. mức độ. trình độ phát triển của thế giới.
Tiếp nối kết quả của những năm trước, Đại hội VII đã thông qua "Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của nước ta đến năm 2000". Hội nghị toàn thể lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa VII (7-1994) đã thông qua “Nghị quyết xây dựng giai cấp công nhân mới trong sự nghiệp phát triển kỹ thuật công nghiệp đến năm 2000 theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. “Nghị quyết” đã tạo điều kiện thuận lợi về cơ chế, chính sách đặc thù thúc đẩy phát triển công nghiệp và công tác khoa học công nghệ trong sản xuất.
Điều đáng chú ý là cũng chính tại Đại hội này, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã được quan niệm, đó là “chuyển đổi căn bản và toàn diện các hoạt động sản xuất, thương mại, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội, từ lao động thủ công là chủ yếu đến lao động Chuyển biến chủ yếu dựa vào công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại, trên cơ sở phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa học, trên cơ sở khoa học và công nghệ để tạo ra năng suất lao động xã hội cao.”
Về công nghiệp, hội nghị đề xuất phát triển công nghiệp chế biến gắn với nông, lâm, ngư nghiệp và xây dựng nông thôn mới. Đẩy mạnh công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, mở rộng kinh tế đối ngoại. Từng bước xây dựng công nghiệp nặng, bắt đầu từ những ngành trực tiếp phục vụ nông nghiệp.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng Cộng sản Trung Quốc (1996): Sau mười năm đổi mới, Đại hội lần thứ VIII của Đảng nhận định: nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhiệm vụ đề ra cho giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị sẵn sàng, cơ bản hoàn thành công nghiệp hóa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Hội nghị cũng đã xác định mục tiêu, nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta đến năm 2020: “Mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hùng mạnh về vật chất - công nghệ hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, thích ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, Đời sống vật chất và đời sống tinh thần cao quý, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Trên cơ sở đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 19 đã xác định mục tiêu cho năm 2000 và 2020. Tám quan điểm chủ yếu bổ sung và phát triển cho sáu quan điểm chủ yếu chỉ đạo quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Những quan điểm tổng thể này càng cho thấy rõ hơn mô hình CNH, HĐH của nước ta là chiến lược công nghiệp hóa kết hợp thay thế nhập khẩu và hướng xuất khẩu, nhấn mạnh nhu cầu lớn của xuất khẩu, và thị trường bên ngoài là yếu tố đặc biệt quan trọng. vị trí phát triển.

Các ngành công nghiệp được chú trọng phát triển trước hết là công nghiệp chế biến, công nghiệp hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng về dầu khí, than, xi măng, cơ khí, điện tử, thép, phân bón, hoá chất, một số cơ sở công nghiệp quốc phòng.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (năm 2001): Đại hội diễn ra trong bối cảnh loài người đã kết thúc thế kỷ XX và bước sang thế kỷ XXI, nước ta đứng trước những thời cơ lớn đan xen với nhiều thách thức lớn.

Đại hội đã đánh giá tổng kết 05 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII, 15 năm đổi mới và 10 năm thực hiện chiến lược kinh tế - xã hội, rút ra những bài học kinh nghiệm của công cuộc đổi mới, từ đó phát triển và hoàn thiện đường lối, định ra chiến lược phát triển đất nước trong hai thập kỷ đầu của thế kỷ XXI.

Chủ đề của Đại hội được xác định là "Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa". Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm đầu của thế kỷ XXI (2001-2010) là "Chiến lược đẩy mạnh CNH, HĐH theo định hướng XHCN, xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp". Chủ đề Đại hội và chủ đề của Chiến lược được quyết định tại Đại hội đã thể hiện nhiệm vụ trung tâm của giai đoạn phát triển mới là “đẩy mạnh CNH, HĐH”.

Để tạo nền tảng cho nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, ngành công nghiệp đã được định hướng phấn đấu phát triển với nhịp độ cao, có hiệu quả, coi trọng đầu tư chiều sâu, đổi mới thiết bị công nghệ tiên tiến và tiến tới hiện đại hoá từng phần các ngành sản xuất công nghiệp.

Xây dựng có lựa chọn, có điều kiện về vốn, công nghệ, thị trường, và hiệu quả một số cơ sở công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất: dầu khí, luyện kim (thép, alumin, nhôm, kim loại quý hiếm...), cơ khí, điện tử, hoá chất cơ bản... Phát triển mạnh công nghiệp công nghệ cao, nhất là công nghệ thông tin, viễn thông, điện tử. Phát triển một số cơ sở công nghiệp quốc phòng cần thiết.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (Năm 2006): Đại hội X cũng đã tiếp tục bổ sung và nhấn mạnh một số điểm mới trong tư duy về công nghiệp hóa, đó là: Con đường công nghiệp hóa ở nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước. Đây là yêu cầu cấp thiết của nước ta nhằm sớm thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Một nước đi sau có điều kiện tận dụng những kinh nghiệm kỹ thuật, công nghệ và thành quả của các nước đi trước, tận dụng xu thế của thời đại qua hội nhập quốc tế để rút ngắn thời gian.

Tuy nhiên, tiến hành công nghiệp hóa theo lối rút ngắn so với các nước đi trước, chúng ta cần thực hiện các yêu cầu như: Phát triển kinh tế và công nghệ phải vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt; phát huy những lợi thế của đất nước, gắn công nghiệp hóa với hiện đại hóa, từng bước phát triển kinh tế tri thức; phát huy nguồn lực trí tuệ và tinh thần của con người Việt Nam, đặc biệt coi trọng phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, xem đây là nền tảng và động lực cho CNH, HĐH.

Đại hội cũng đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế 05 năm 2006-2010 với mục tiêu tổng quát là: “Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đạt được bước chuyển biến quan trọng về nâng cao hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Cải thiện rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần của nhân dân. Tạo được nền tảng để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức, đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020... Nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế”.

Hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta là phát triển nhanh và có hiệu quả các sản phẩm, các ngành, các lĩnh vực có lợi thế, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu.

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải bảo đảm xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tức là phải tiến hành công nghiệp hóa trong một nền kinh tế mở, hướng ngoại.

Với ngành công nghiệp được định hướng tập trung nguồn lực phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các ngành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh, tạo ra sản phẩm xuất khẩu và thu hút nhiều lao động, như: chế biến nông, lâm, thuỷ sản; may mặc, giày dép, đồ nhựa, đồ gỗ gia dụng; cơ khí đóng tàu, công nghiệp chế tạo thiết bị đồng bộ, thiết bị điện, thiết bị xây dựng, máy nông nghiệp, phương tiện giao thông, sản xuất và lắp ráp cơ - điện tử; công nghiệp bổ trợ, công nghiệp công nghệ thông tin, sản xuất phần mềm. Nâng tỉ trọng sản phẩm công nghiệp xuất khẩu đã qua chế biến. Chú trọng phát triển công nghiệp năng lượng đi đôi với áp dụng công nghệ tiết kiệm năng lượng; công nghiệp vật liệu và công nghệ tiết kiệm nguyên vật liệu; công nghiệp dược và các chế phẩm sinh học; công nghiệp bảo vệ môi trường.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI (năm 2010): Đại hội đã tổng kết thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001-2010 và đưa ra nhận định, đó là: Nước ta đã thu được nhiều thành tựu to lớn, quan trọng, đưa đất nước thoát ra khỏi tình trạng kém phát triển; vị thế của đất nước đã được nâng lên một tầm cao mới trên trường quốc tế, do đó đang tạo ra những tiền đề mới, quan trọng cho việc đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta.

Đại hội cũng đã nhất trí thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), trong đó: “Từ nay đến giữa thế kỷ thứ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.

Đại hội cũng đã thông qua Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020 với mục tiêu tổng quát là: Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại;… vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau.

Định hướng mạnh phát triển công nghiệp theo hướng hiện đại, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh. Trong đó, cần tổ chức lại sản xuất công nghiệp theo ngành kinh tế - kỹ thuật, theo vùng và theo giá trị mới. Tăng hàm lượng khoa học công nghệ và tỷ trọng nội địa hóa sản phẩm. Phát triển có chọn lọc công nghiệp chế biến, chế tạo, công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp năng lượng, khai khoáng, luyện kim, hóa chất và công nghiệp quốc phòng. Ưu tiên phát triển sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, sản phẩm tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu, phát triển mạnh công nghiệp hỗ trợ trong các ngành công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp máy móc, công nghiệp và công nghệ thông tin, truyền thông, dược phẩm... . Quan tâm phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp, nông thôn, năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, vật liệu mới, gắn với ứng dụng công nghệ tiết kiệm năng lượng, tiết kiệm nguyên liệu. Từng bước phát triển công nghiệp sinh học và công nghiệp bảo vệ môi trường.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII Đảng Cộng sản Trung Quốc (2016): Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII kiểm điểm việc thực hiện các nghị quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI; tổng kết và nhìn lại 30 năm đổi mới, rút ​​ra những bài học kinh nghiệm cho sự phát triển trong tương lai.
Hội nghị cũng chỉ ra, công tác chuyển đổi chưa đồng bộ, toàn diện dẫn đến nhiều mục tiêu kinh tế - xã hội chưa đạt được như kế hoạch đề ra; nhiều chỉ tiêu, tiêu chuẩn không đạt được trong mục tiêu đến năm 2020 cơ bản xây dựng nước ta trở thành nước công nghiệp. . Đại hội cũng xác định mục tiêu tổng quát cho nhiệm kỳ 2016 - 2020 là: “Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc chấn chỉnh; phát triển kinh tế nhanh và bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại... Tích cực hội nhập quốc tế và phát triển đất nước; nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới”.
Tháng 3/2018, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 23-NQ/TW về chủ đề Chính sách phát triển công nghiệp quốc gia, trong đó nội dung cụ thể là “Định vị chính sách phát triển công nghiệp quốc gia năm 2030, tầm nhìn 2045”.
Mục tiêu tổng quát của nghị quyết là: “Đến năm 2030, Việt Nam phấn đấu hoàn thành mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; thuộc nhóm 03 nước công nghiệp mạnh trong khu vực ASEAN , một số ngành có khả năng cạnh tranh quốc tế và hội nhập sâu rộng vào Chuỗi giá trị toàn cầu. Tầm nhìn đến năm 2045, Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Điểm nổi bật của nghị quyết là không ngừng hoàn thiện tư tưởng chỉ đạo: “nhận thức đầy đủ, tôn trọng và vận dụng đúng các quy luật khách quan của kinh tế thị trường, thúc đẩy sự phát triển đồng bộ của cả hệ thống chính trị phù hợp với thực tế phát triển của đất nước. Tất cả ý chí, hành vi quan liêu, bao cấp đều thể hiện ở Trung Quốc; bám sát và kế thừa có chọn lọc những thành tựu phát triển công nghiệp và kinh nghiệm công nghiệp hóa của thế giới”.
Đặc biệt đối với các ngành công nghiệp đến năm 2030 ưu tiên phát triển một số ngành công nghiệp tiên tiến thế giới như công nghệ thông tin, truyền thông, điện tử để đáp ứng nhu cầu của thế giới. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tạo nền tảng công nghệ số cho các ngành khác; công nghiệp năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, năng lượng thông minh; chế biến, chế tạo phục vụ nông nghiệp đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế. Ưu tiên phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh, kết hợp với công nghiệp dân sự, phát triển theo hướng quân, dân sự lưỡng dụng. Tiếp tục phát triển ngành dệt may nhưng ưu tiên khâu phát triển liên kết sản xuất thông minh, tự động hóa để tạo ra giá trị gia tăng cao. Ưu tiên phát triển một số ngành, lĩnh vực máy móc như ô tô, máy nông nghiệp, thiết bị xây dựng, thiết bị công nghiệp, thiết bị điện, thiết bị y tế.

Nội dung bài viết:

    Đánh giá bài viết: (340 lượt)

    Bài viết liên quan

    Phản hồi (0)

    Hãy để lại bình luận của bạn tại đây!