Tìm hiểu về chủ nghĩa hiện sinh là gì? - Luật ACC

Chủ nghĩa hiện sinh là một luồng tư tưởng triết học đưa ra một quan điểm khác về thế giới loài người. Theo lý thuyết này, mọi người được đánh giá cao về tính cá nhân và tính cá nhân của họ. Xét về giá trị nhân văn thì thiên về tình cảm. Chỉ bằng cách này, cuộc sống của con người mới có thể được nhìn nhận một cách thực tế và cụ thể hơn. Chủ nghĩa hiện sinh cung cấp sự cân bằng giữa cảm xúc, cuộn và lý trí. Kể từ đó, mỗi người đều có một thế giới và sống trong tiểu vũ trụ của riêng mình.

1. Chủ nghĩa hiện sinh là gì?

Chủ nghĩa hiện sinh hay còn được gọi là Thuyết hiện sinh. Đây là luồng tư tưởng triết học của một nhóm các triết gia cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Các tư tưởng được xây dựng mang đến ý nghĩa mới mẻ, tiến bộ trong nhận thức về con người. Họ có niềm tin chung rằng tư duy triết học xuất phát từ chủ thể cá nhân con người. Tính chủ nghĩa cũng được thể hiện đảm bảo trong các tư duy đánh giá về con người.

Đại biểu chủ yếu của chủ nghĩa hiện sinh là các nhà triết học Hâyđơgơ, Xáctơrơ, Giaxpơ, Macxen. Các đối tượng này mang đến khởi đầu, đưa ra lý tưởng xây dựng cho chủ nghĩa được phát triển.

Chủ nghĩa hiện sinh nhấn mạnh trải nghiệm, hành động, cách sống của cá nhân mỗi người. Qua đó mang đến thế giới riêng tư, các quyền sống, trải nghiệm và tư duy của mỗi người trong nhu cầu của họ. Đây mới là tiền đề để thế giới có thể tồn tại, phát triển đa dạng.

Chủ nghĩa hiện sinh tôn trọng sự riêng biệt của mỗi cá nhân. Nhấn mạnh các ý nghĩa nhận thức, phát triển của mỗi con người trong thế giới riêng của họ. Trong đó đề cao sự thật rằng không có một “nhân loại” chung chung nào, mà chỉ có những người có cuộc sống vô cùng khác nhau và là những “vũ trụ thu nhỏ” bao la rộng lớn. Từ đó mà các quyền làm chủ đạt được giá trị.

2. Chủ nghĩa hiện sinh tiếng Anh là gì?

Chủ nghĩa hiện sinh tiếng Anh là Existentialism.

3. Sự hình thành chủ nghĩa hiện sinh:

Chủ nghĩa hiện sinh ra đời ở Đức vào cuối Thế chiến thứ nhất. Trong số đó, Martin Heidegger (1889-1976) và Carl Jasper (1883-1969) là hai nhân vật tiêu biểu.
Sớm lan sang Pháp. Phải kể đến những tên tuổi như Jean Paul Sartre (1905-1980), Garbie Marcel (1889-1978), Albert Camus (1913-1960), Merleau Ponty (1908-1961).
Ban đầu, chủ nghĩa hiện sinh là một trào lưu văn học được khai thác trong các tác phẩm hư cấu, truyện, kịch, thơ, nhật ký, tiểu luận, v.v. Có được hiểu biết mới về thế giới, quan điểm đánh giá con người. Do đó, phản ánh triết lý tự nhiên của cuộc sống, tự do, tự do, cá nhân và quyền sống trong vũ trụ của chính mọi người. Sau đó, nó dần dần trở thành một trường phái triết học và một phong trào xã hội, ảnh hưởng sâu sắc đến cách sống của giới trẻ.
Đặc biệt trong bối cảnh các cuộc chiến tranh thế giới, hệ tư tưởng có ảnh hưởng vô cùng mạnh mẽ đến nhận thức của giới trẻ. Họ đã chiến đấu vì vũ trụ của riêng họ, vì những quyền độc nhất mà họ đáng được hưởng.

Chủ nghĩa hiện sinh mang đến quan điểm nhận định:

+ Các triết gia bận tâm với việc tìm ra nguồn gốc của vũ trụ và giải thích các quá trình nhận thức. Như vậy, bản sắc và cuộc sống con người bị lãng quên. Chủ nghĩa hiện sinh giúp giải thích mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa cá nhân và xã hội, tự do và tất yếu.
+ Trong khi công nghệ tồn tại để giảm bớt sức lao động thì chẳng mấy chốc máy móc lại buộc con người phải chạy theo guồng quay và trở thành nô lệ của guồng quay. Từ đó, giá trị tinh thần và ý nghĩa tự do của con người không được đảm bảo.
+ Văn học cổ điển đi sâu vào chủ nghĩa lãng mạn miêu tả những câu chuyện tình bi thảm.
Chủ nghĩa hiện sinh tập trung vào cuộc sống thực của con người. Đây là điểm dung hòa, mở ra tư tưởng tiến bộ. Cuộc sống con người đòi hỏi mọi vấn đề phải cụ thể hơn, thực tế hơn, chắc chắn hơn hoặc “hiện tại hơn”. Đây là tính tất yếu của sự hình thành và duy trì chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn nói trên. Có thể thấy, nhận thức về chủ nghĩa hiện sinh là một quan điểm phù hợp và tiến bộ. Nó vừa hợp lý, vừa phản ánh giá trị cảm nhận của con người.

4. Ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện sinh:

4.1. Ảnh hưởng đối với các quốc gia khác trên thế giới:

Tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa hiện sinh đã đi vào tâm tính hiện đại. Các quan điểm mở ra nhận thức mới, đưa con người nhìn nhận thế giới ở một góc độ hoàn toàn khác. Trở thành điều kiện để hình thành cá tính đích thực và khắc phục niềm tin thơ ngây của nhân loại vào tiến bộ khoa học – kỹ thuật.

 

 

Chủ nghĩa hiện sinh lan nhanh và ảnh hưởng sâu rộng đến giới trẻ phương Tây, tạo nên những phong trào rộng rãi trong cuộc sống phương Tây. Phải kể đến các thay đổi thông qua trào lưu chuyển tải tư tưởng bằng tác phẩm văn học.

Vào những năm 60 – 70, trong các tác phẩm của thế kỷ XX như “Hippy”, “Anti-State”, “Anti-Modern”, “Sexual Liberation”. Các phong trào này đã tạo nên một cuộc sống sôi động trong giới trẻ. Đặc biệt là góp phần khẳng định tiến bộ xã hội trong vấn đề bảo vệ nhân quyền, đề cao các quyền tự do, nhất là tự do ngôn luận.

Con người bắt đầu có được giá trị, tầm ảnh hưởng trong thế giới riêng. Đó cũng là nhận thức mới để mỗi người biết trân quý bản thân, các giá trị bản thân có thể tạo ra.

4.2. Ảnh hưởng đến nền văn học nghệ thuật của Việt nam:

Các ảnh hưởng cũng phản ánh rõ rệt trong trào thơ, văn của Việt nam ở các giai đoạn này. Khi các tác giả đề cao quyền lợi, thân phận của con người trong xã hội.

– Tác phẩm Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều:

Ở Việt Nam, một cách tự phát, chủ nghĩa hiện sinh đã manh nha trong Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều. Ở đó, ông miêu tả thân phận của những thiếu nữ được tuyển vào cung Vua phủ chúa chờ ngày ân ái. Thông qua đó, tác giả nói lên thân phận “bèo dạt mây trôi” của kiếp làm người nói chung. Các giá trị của con người bị xem nhẹ, bởi cái giá trị của họ đã được công nhận khi chủ nghĩa hiện sinh được công nhận:

“Thảo nào khi mới chôn nhau

Đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra

 

 

Khóc vì nỗi thiết tha sự thế

Ai bày trò bãi bể nương dâu

Trắng răng đến thuở bạc đầu…

Trăm năm còn có gì đâu

Chẳng qua một nấm cổ khâu xanh rì”

– Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du:

Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng là một thi phẩm phản ánh đời sống “hồng nhan bạc phận” của nàng Kiều với những tiếng kêu xé lòng đứt ruột. Qua đó nói lên thân phận bị xem nhẹ, bị chôn vùi của người phụ nữ nói riêng, người thấp cổ bé họng nói chung:

“Trăm năm trong cõi người ta/ Những điều trông thấy mà đau đớn lòng... Đau đớn thay phận đàn bà/ Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”

 

 

Mười lăm năm sống lưu lạc của nàng Kiều là một bản cáo trạng lên án chế độ phong kiến đương thời, một chế độ “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”. Ở đó thân phận của người phụ nữ bị coi thường, xem họ thân phận họ như những hạt mưa rơi. Các giá trị cá nhân của con người không được tôn trọng, không được đề cao. Và các tác giả lên án, phê phán những nhận thức kém tiến bộ này.

Trong kháng chiến chống thực dân Pháp:

Từ phương Tây, chủ nghĩa hiện sinh theo gót chân quân xâm lược Pháp đến Việt Nam vào những năm đầu thế kỷ XX. Các giá trị của chủ nghĩa này cũng hiện diện trên thi đàn như thơ say của Vũ Hồng Chương, thơ mới. Qua đó phản ánh tình yêu hiện đại của các thi sĩ tiền chiến, đặc biệt là thơ Xuân Diệu.

Phản ánh sự dấn thân của thế hệ trẻ trong mục đích bảo vệ, thống nhất đất nước.

Ở miền Nam Việt nam:

Ở miền Nam, dưới thời tạm chiếm, chủ nghĩa hiện sinh đã trở thành mốt sống của thanh niên đô thị. Các giá trị của con người, của cá nhân được đề cao hơn bao giờ hết trong quyền lợi của họ. Tư tưởng hiện sinh phản ánh trong hàng loạt các tác phẩm văn học, điển hình là các tác phẩm của Duyên Anh, Nguyễn Thị Hoàng, Thanh Tâm Tuyền,… Đều thể hiện ý nghĩa nói lên tinh thần lo âu, tuyệt vọng, nổi loạn, phản kháng của tầng lớp thanh niên “sống giữa hai làn đạn”.

Sau công cuộc đổi mới do Đảng Cộng Sản Việt Nam khởi xướng, chủ nghĩa được thực hiện với phương châm “cởi trói cho văn học nghệ thuật”. Từ đó mở ra cơ hội thể hiện nguyên hình trên diễn đàn văn học. Sự phổ biến của luồng tư tưởng mới, tiến bộ được lan rộng. Với các gương mặt tiêu biểu như:

+ Nguyễn Quang Lập (Một nửa đời đen – trắng, Đời cát),

 

 

+ Nguyễn Minh Châu (Phiên chợ Giát),

+ Phạm Thị Hoài (Thiên sứ, Mê lộ, Man nương),

+ Dương Thu Hương (Bên kia bờ ảo vọng, Những thiên đường mù),

+ Bảo Ninh (Nỗi buồn chiến tranh),

+ Nguyễn Huy Thiệp (Phẩm tiết, Vàng lửa, Tướng về hưu, Thương nhớ đồng ơi…),

+ Chu Lai (Ăn mày dĩ vãng),

+ Dương Hướng (Bến không chồng),

+ Nguyễn Thị Ngọc Tư (Cánh đồng bất tận),

 

 

+ Đỗ Hoàng Diệu (Bóng đè, Vu quy…),…

Như vậy:

Những tác phẩm văn học này đã góp một tiếng nói đa dạng vào công cuộc chấn hưng nền văn học nước nhà. Nó phản ánh một góc buồn, cô đơn của cuộc sống. Đặc biệt, nó phơi bày thế giới nội tâm của con người bị xé nát trong một thời đại đầy lo lắng, mâu thuẫn và sự thay đổi công nghệ nhanh chóng.
Giá trị cá nhân phải được tôn trọng và đề cao. Con người là sinh vật sống trong vũ trụ, và họ phải có quyền chủ động tổ chức cuộc sống của mình. Đặc biệt, chủ nghĩa hiện sinh đem lại nhận thức mới khi can dự vào chiến tranh và bom đạn.
Thực ra, chủ nghĩa hiện sinh trong văn học là sự tiếp nối của chủ nghĩa hiện thực phê phán, nhưng với một tinh thần tự nhiên, “chính trực”, thẳng thắn và gay gắt. Sự chỉ trích về sự thiếu tiến bộ trong tư tưởng vẫn còn khi tính cá nhân thể hiện rõ ràng hơn. Đôi khi, nếu không muốn nói là thẳng thắn, có một ý đồ thâm độc là "đánh sập các thần tượng", đưa các thần tượng và lý tưởng chính trị xã hội trở lại cuộc sống hàng ngày. Nhằm giúp mọi người sống một cuộc sống thực chất lượng và ý nghĩa.

Nội dung bài viết:

    Đánh giá bài viết: (1001 lượt)

    Bài viết liên quan

    Phản hồi (0)

    Hãy để lại bình luận của bạn tại đây!