Tổng hợp các vụ án về tham ô tài sản

Theo quy định tại Điều 353 BLHS năm 2015 thì Tội tham ô tài sản là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm hoặc đã bị kết án về một trong các tội quy định tại Mục 1 Chương này (từ Điều 353 đến Điều 359), chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, do người từ đủ 16 tuổi trở lên và không trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện (Điều 12, Điều 21 BLHS năm 2015) với lỗi cố ý trực tiếp (khoản 1 Điều 10 BLHS năm 2015).

Hình phạt của tội tham ô tài sản - Ban Nội Chính Trung ương

Tổng hợp các vụ án về tham ô tài sản

1. Bản án số 06/2020/HSST ngày 12/01/2021 về tội tham ô tài sản của Tòa án nhân dân huyện Ngọc Lặc tỉnh Thanh Hoá

Nội dung vụ án:

Ngày 28/7/2016 Phạm Trường K được bầu làm trưởng Thôn LS, xã NS, ngày 02/8/2016 Chủ tịch UBND xã NS đã ra Quyết định về việc phê chuẩn kết quả bầu trưởng thôn nhiệm kỳ 2016 – 2018. Thực hiện Nghị quyết số: 04-NQ/ĐU ngày 05/01/2015 của Đảng bộ xã NS về Lãnh đạo thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2015 – 2020 và Nghị quyết số: 01/2016/NQ-HĐND ngày 13/01/2016 của Hội đồng nhân dân xã NS về nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2016 – 2020. Phạm Trường K được giao nhiệm vụ nhận tiền của nhà nước hỗ trợ, tiền nhân dân đóng góp và thanh toán tiền đối với các chủ thầu xây dựng. K đã nhận được tổng số tiền của nhà nước hỗ trợ và tiền của nhân dân đóng góp là 361.757.000 đồng gồm: Tiền nhà nước hỗ trợ 45.000.000 đồng, tiền thu được của nhân dân Thôn LS đóng góp 316.757.000 đồng. K đã chi trả tổng số tiền là 283.497.000 đồng, còn lại 78.260.000 đồng K đã chi vào việc cá nhân mà không được sự đồng ý của Ban thôn và nhân dân Thôn LS, xã NS.

Bản cáo trạng số 37 ngày 30/10/2020 Viện kiểm sát nhân dân huyện NL đã truy tố Phạm Trường K về tội “Tham ô tài sản” theo khoản 1 Điều 353 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Nhận định của Tòa án:

Về hành vi phạm tội của bị cáo: Năm 2017 bị cáo Phạm Trường K đã chiếm đoạt số tiền thu của nhân dân Thôn LS là 78.260.000 đồng. Hành vi của Phạm Trường K đã phạm vào tội “Tham ô tài sản”. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện NL truy tố Phạm Trường K theo khoản 1 Điều 353 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Về tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến tài sản của Thôn LS và xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của thôn và xã trong công cuộc xây dựng nông thôn mới của Thôn LS và xã NS, huyện NL.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: áp dụng các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

Bị cáo Phạm Trường K phạm tội “Tham ô tài sản”. Xử phạt: Bị cáo Phạm Trường K 36 (Ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày thi hành án.

Về phần dân sự: Buộc bị cáo Phạm Trường K phải bồi thường số tiền 78.260.000 đồng cho Thôn LS, xã NS, huyện NL.

2. Bản án số 96/2021/HS-ST ngày 02/08/2021 của Tòa án nhân dân Thành phố Sơn La tỉnh Sơn La về tội tham ô tài sản

Nội dung vụ án:

Ngày 17/01/2020, Công ty cổ phần Vinacappital Việt Nam ký Hợp đồng lao động số BG181170 với Đặng Trọng H. Với chức vụ trưởng bưu cục Sơn La, H là đại diện cho bưu cục Sơn La, có trách nhiệm quản lý hàng hóa, quản lý tiền của các nhân viên đã giao hàng thành công theo hình thức COD và tiền nhận trực tiếp từ khách hàng rồi chuyển tiền COD đó về công ty trước 12h hàng ngày. Ngày 01/6/2020, H nhận đơn hàng trên từ Công ty Vinacappital để giao cho khách hàng Đào Xuân S, H giao đơn hàng gồm 71 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu VIVO Y15 cho anh S và nhận đủ số tiền 198.443.000 đồng từ anh S. Sau đó, H nảy sinh ý định sử dụng số tiền 198.443.000 đồng vừa nhận được. Để chơi Game qua mạng nên H đã nạp 195.000.000 đồng vào trang http://web.gamesun.vn và đã chơi game hết tiền trong ngày, số tiền còn lại 3.443.000 đồng H rút tiền mặt để chi tiêu cá nhân.

Tại bản Cáo trạng số 212/CT – VKSTP ngày 15 tháng 01 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố S, tỉnh Sơn La đã truy tố bị cáo Đặng Trọng H về tội Tham ô tài sản, theo khoản 2 Điều 353 Bộ luật Hình sự.

Nhận định của Tòa án:

Về hành vi phạm tội của bị cáo: Đặng Trọng H lợi dụng quyền quản lý số tiền nhận được từ khách hàng, sau khi giao hàng thành công H đã không chuyển số tiền nhận được từ anh Sắc về công ty Vinacappital theo quy định mà chiếm đoạt số tiền trên để dùng vào mục đích cá nhân.

Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: áp dụng tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

Tuyên bố bị cáo Đặng Trọng H phạm tội Tham ô tài sản. Xử phạt bị cáo Đặng Trọng H 09 (Chín) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (ngày 24/8/2020). Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Đặng Trọng H phải bồi thường cho Công ty cổ phần Vinacappital Việt Nam số tiền 198.443.000 đồng.

3. Bản án số 62/2021/HS-PT ngày 10/08/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ về tội tham ô tài sản

Nội dung vụ án:

Hoàng Thị Phương T được Giám đốc Bưu điện tỉnh Phú Thọ ký quyết định tiếp nhận lao động vào làm nhân viên hợp đồng mùa vụ làm việc tại Bưu điện thành phố Việt Trì từ 02/5/2019 với chức danh giao dịch viên. Khoảng cuối tháng 5 năm 2019 T được anh Hà Việt Chung là Phó giám đốc Bưu điện thành phố Việt Trì, giao nhiệm vụ chi trả tiền trợ cấp thất nghiệp của tháng 6, tháng 7, tháng 8 năm 2019 cho các cá nhân được hưởng theo danh sách chi trả tiền do Bảo hiểm xã hội tỉnh Phú Thọ cung cấp. Quá trình thực hiện, thấy có nhiều cá nhân không đến nhận tiền và hàng tháng sau khi chi trả tiền trợ cấp xong, khi đối chiếu với bộ phận kế toán đối soát của Bưu điện thành phố về số tiền đã chi trả chỉ cần đối chiếu theo danh sách C72b-HD do Bảo hiểm xã hội tỉnh Phú Thọ cung cấp có chữ ký của những cá nhân đã nhận tiền là xong, nên T đã 17 lần ký giả chữ ký của 15 người để chiếm đoạt số tiền 46.175.470 đồng dùng để trả cho các cá nhân được hưởng trợ cấp thất nghiệp, số tiền này đã được T quyết toán với bộ phận đối soát của Bưu điện để chi tiêu cá nhân.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 22/2021/HSST ngày 25 tháng 02 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ đã: Tuyên bố bị cáo Hoàng Thị Phương T phạm tội: “Tham ô tài sản”. Xử phạt bị cáo Hoàng Thị Phương T 08 (Tám) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi thi hành án.

Về hình phạt bổ sung: Cấm đảm nhiệm chức vụ đối với bị cáo T 02 (Hai) năm kể từ sau khi chấp hành xong hình phạt. Không áp dụng phạt tiền đối với bị cáo.

Ngày 08/3/2021, bị cáo Hoàng Thị Phương T có đơn kháng cáo xin giảm hình phạt.

Nhận định của Tòa án:

Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lợi dụng nhiệm vụ được phân công trong khoảng thời gian từ tháng 6 đến tháng 9 năm 2019, Hoàng Thị Phương T nguyên là nhân viên hợp đồng của Bưu điện thành phố Việt Trì, được phân công chi trả tiền trợ cấp thất nghiệp cho các cá nhân được hưởng trên địa bàn thành phố Việt trì đã thực hiện hành vi lập khống chứng từ để chiếm đoạt số tiền 46.175.470 đồng của Bưu điện thành phố Việt Trì dùng để chi trả cho 15 cá nhân được hưởng trợ cấp vào mục đích chi tiêu cá nhân. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Tham ô tài sản” theo quy định tại Điểm c Khoản 2 Điều 353 Bộ luật hình sự.

Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của Bưu điện thành phố Việt Trì trong lĩnh vực quản lý tài chính.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: áp dụng tại Điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không

Tòa án cấp phúc thẩm tuyên:

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Hoàng Thị Phương T. Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 22/2021/HSST ngày 25 tháng 02 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ.

Tuyên bố bị cáo Hoàng Thị Phương T phạm tội: “Tham ô tài sản”. Xử phạt bị cáo Hoàng Thị Phương T 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi thi hành án.

Về hình phạt bổ sung: Cấm đảm nhiệm chức vụ đối với bị cáo T 02 (hai) năm kể từ sau khi chấp hành xong hình phạt. Không áp dụng phạt tiền đối với bị cáo.

4. Bản án số 340/2021/HS-PT ngày 23/09/2021 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng về tội tham ô tài sản

Nội dung vụ án:

Tháng 6-2018, Phan Đại H được ký hợp đồng vào làm việc tại Công ty S. Tháng 6-2019, H được Công ty S bổ nhiệm giữ chức vụ Trưởng Chi nhánh tại Huyện T4. Từ tháng 01-2019 đến tháng 7-2019, lợi dụng chức vụ được giao, khi thu tiền của các đại lý, H không nộp lại cho công ty theo quy định, mà tự lập các biên bản đối chiếu xác nhận công nợ giả để chiếm đoạt tiền mà các đại lý đã trả cho công ty và sử dụng tiêu xài cá nhân. Qua đối chiếu thực tế thì có 40 đại lý không còn nợ của công ty hoặc nợ ít hơn sổ theo dõi của công ty. Ngoài ra, H còn có hành vi thu tiền hàng của 03 đại lý (TT, HĐ và NH) nhưng không nộp cho công ty, mà để sử dụng tiêu xài cá nhân. Để tránh bị công ty phát hiện, hàng tháng H tự lập biên bản đối chiếu xác nhận công nợ với khách hàng cho phù hợp với công nợ của khách hàng mà công ty đang theo dõi và ký giả chữ ký của khách hàng. Sau khi sự việc bị công ty phát hiện, H tự ý bỏ việc và bỏ đi khỏi địa phương. Kết quả điều tra xác định: Từ tháng 01/2019 đến tháng 7/2019, Phan Đại H đã chiếm đoạt của Công ty S tổng số tiền 541.975.009 đồng, số tiền chiếm đoạt của Công ty S, H sử dụng để tiêu xài cá nhân và đánh bạc bằng hình thức chơi lô đề.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 28/2001/HS-ST ngày 04-6-2021, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam: xử phạt: Phan Đại H 12 (mười hai) năm tù về tội ‘Tham ô tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 03-8-2020.

Buộc Phan Đại H có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại về tài sản cho Công ty TNHH Một thành viên Quốc tế S số tiền là 541.975.009 đồng (được khấu trừ 2.000.000 đồng mà gia đình bị cáo nộp tại Cục thi hành án Dân sự tỉnh Quảng Nam). Bị cáo còn phải tiếp tục bồi thường 539.975.009 đồng.

Ngày 07-6-2021, Phan Đại H kháng cáo xin giảm hình phạt.

Nhận định của Tòa án:

Về hành vi phạm tội của bị cáo: Trong thời gian từ tháng 01-2019 đến tháng 7-2019, là nhân viên của Công ty TNHH MTV Quốc tế S, Phan Đại H đã thực thiện không đúng quy chế của công ty đối với nhiệm vụ, quyền hạn được giao, thu tiền kinh doanh của 40 đại lý, cửa hàng bán sản phẩm của công ty, nhưng không nộp về công ty theo quy định, mà lập hồ sơ giả, hợp thức chứng từ để chiếm đoạt của công ty, với tổng số tiền là 541.975.009 đồng để sử dụng vào mục đích cá nhân. Hành vi của Phan Đại H là lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý giá trị 541.975.009 đồng. Theo quy định tại khoản 6 Điều 353 của Bộ luật Hình sự, thì hành vi của Phan Đại H đủ yếu tố cấu thành tội “Tham ô tài sản”.

Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là hành vi phạm tội thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, đã gây thiệt hại nghiêm trọng về tài sản của Công ty S, và còn gây ảnh hưởng tiêu cực nhiều mặt đến đời sống xã hội.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã tác động gia đình bồi thường 2.000.000 đồng để khắc phục một phần hậu quả; bị cáo có nhân thân tốt; hoàn cảnh gia đình khó khăn, vợ bị bệnh và bị cáo là lao động chính trong gia đình.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không

Hội đồng xét xử phúc thẩm không giảm hình phạt cho bị cáo. Kháng cáo không được chấp nhận

Tòa án cấp phúc thẩm tuyên:

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phan Đại H. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 28/2021/HS-ST ngày 04-6-2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam.

Xử phạt: Phan Đại H 12 (mười hai) năm tù về tội ‘Tham ô tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 03-8-2020.

5. Bản án số 413/2021/HS-PT ngày 12/10/2021 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng về tội tham ô tài sản

Nội dung vụ án:

Võ Ngọc S là Giám đốc Nhà máy sữa Đà Nẵng kể từ ngày 01/4/2015. Để phục vụ hoạt động sản xuất, từ ngày 22/9/2015, S ký kết Hợp đồng mua bán hàng hóa là dầu DO với Công ty Cổ phần dầu khí Q do Bùi Văn T2 làm giám đốc. Công ty Q ký kết Hợp đồng mua bán xăng dầu từng năm với Công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ tổng hợp H từ tháng 8/2015 đến 3/2019 để có dầu DO cung cấp cho Nhà máy sữa Đà Nẵng và các Công ty và cá nhân khác. Khoảng 4 tháng sau, S trao đổi và thống nhất với T2 về việc Công ty Q xuất hóa đơn GTGT khống bán dầu DO cho Nhà máy sữa Đà Nẵng. S chỉ đạo Nguyễn Xuân P – Trưởng Ban kế toán và các nhân viên thủ kho vật tư kỹ thuật là Tôn Nữ Thanh T và Lê Thị Quỳnh T1 liên hệ T2 thông báo số lượng dầu DO cần nhập khống, lấy hóa đơn GTGT, thực hiện việc hợp thức các hóa đơn khống để chiếm đoạt tiền của Công ty Cổ phần sữa V. Từ tháng 3/2016 đến tháng 7/2018, Công ty Q xuất khống cho Nhà máy sữa Đà Nẵng 55 hóa đơn GTGT với số lượng dầu DO xuất khống là 692.000 lít. Tổng số tiền Công ty Cổ phần sữa V thanh toán cho các hóa đơn này là 9.547.876.000 đồng, trong đó T2 chuyển vào các tài khoản của P số tiền 8.530.486.480 đồng, T2 giữ lại số tiền 1.017.389.520 đồng.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 54/2020/HS-ST ngày 29/9/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng đã quyết định. Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Xuân P, Tôn Nữ Thanh T, Lê Thị Quỳnh T1 và Bùi Văn T2 phạm tội “Tham ô tài sản”. Xử phạt: Nguyễn Xuân P 16 (Mười sáu) năm tù, Lê Thị Quỳnh T1 09 (chín) năm tù, Bùi Văn T2 09 (chín) năm tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 22/01/2019.

Ngày 06/10/2020, các bị cáo Nguyễn Xuân P, Tôn Nữ Thanh T, Lê Thị Quỳnh T1, Bùi Văn T2 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Nhận định của Tòa án:

Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Bị cáo Nguyễn Xuân P với chức vụ là Trưởng ban kế toán; Tôn Nữ Thanh T là nhân viên thủ kho Vật tư – Kỹ thuật và Lê Thị Quỳnh T1 là nhân viên Thủ kho thành phẩm của Nhà máy sữa Đà Nẵng, là những người có chức vụ, quyền hạn của Chi nhánh Nhà máy sữa Đà Nẵng, đơn vị thuộc Công ty Cổ phần sữa V do ông Võ Ngọc S làm Giám đốc chi nhánh đã cấu kết với Bùi Văn T2 là Giám đốc Công ty Cổ phần dầu khí Q lợi dụng việc ký kết Hợp đồng mua bán hàng hóa, dầu DO xuất hóa đơn Giá trị gia tăng bán dầu DO cho Nhà máy sữa Đà Nẵng, sau đó hợp thức các Hóa đơn để nâng khống số lượng dầu, đã chiếm đoạt với tổng số tiền là 9.547.876.000 đồng của Công ty CP sữa V để tiêu xài cá nhân, xét xử các bị cáo về tội “Tham ô tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 353 Bộ luật hình sự 2015 là có căn cứ đúng người, đúng tội.

Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản doanh nghiệp nhà nước với số tiền chiếm đoạt rất lớn, gây thiệt hại nghiêm trọng về kinh tế cho Công ty CP sữa V, ảnh hưởng xấu đến hoạt động của Công ty nói riêng và các Tổ chức kinh tế nói chung. Bản thân các bị cáo hoàn toàn ý thức được việc làm của mình là trái pháp luật nhưng vì vụ lợi cá nhân nên dẫn đến phạm tội.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: áp dụng khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với Nguyễn Xuân P; áp dụng điểm u, điểm v khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với Bùi Văn T2; Tôn Nữ Thanh T và Lê Thị Quỳnh T1 có 3 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điều 51 Bộ luật hình sự

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không

Tòa án cấp phúc thẩm tuyên:

Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Xuân P, Tôn Nữ Thanh T, Lê Thị Quỳnh T1 và Bùi Văn T2, sửa bản án sơ thẩm về phần hình phạt đối với các bị cáo.

Xử phạt: Nguyễn Xuân P 14 năm tù về tội “Tham ô tài sản”, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 22/01/2019. Tôn Nữ Thanh T 9 năm 6 tháng tù về tội “Tham ô tài sản”, Lê Thị Quỳnh T1 6 năm 6 tháng tù về tội “Tham ô tài sản”, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án. Bùi Văn T2 4 (Bốn) năm tù về tội “Tham ô tài sản”, nhưng được trừ đi thời gian tạm giam trước đây từ ngày 19/06/2019 đến ngày 15/08/2019 (01 tháng 26 ngày), còn lại 3 năm 10 tháng 04 ngày tù; thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Về trách nhiệm dân sự và việc bồi thường thiệt hại: Buộc các bị cáo Nguyễn Xuân P, Tôn Nữ Thanh T, Bùi Văn T2, Lê Thị Quỳnh T1 và người kế thừa quyền và nghĩa vụ của ông Võ Ngọc S (đã chết) là bà Phạm Thị N phải liên đới bồi thường cho Công ty Cổ phần sữa V số tiền là: 9.547.876.000 đồng, chia phần theo mức độ lỗi của từng người.

Nội dung bài viết:

    Đánh giá bài viết: (852 lượt)

    Để lại thông tin để được tư vấn

    Họ và tên không được để trống

    Số điện thoại không được để trống

    Số điện thoại không đúng định dạng

    Email không được để trống

    Vấn đề cần tư vấn không được để trống

    Bài viết liên quan

    Phản hồi (0)

    Hãy để lại bình luận của bạn tại đây!

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo